Saturday, May 2, 2009




CỘNG ĐOÀN : MỘT TRƯỜNG HỌC

Đã là con người ai cũng phải trải qua huấn luyện: huấn luyện ở trường học và huấn luyện ở trường đời. Người ta có thể đến trường để học và người ta cũng có thể học ở nhà. Con người chịu ảnh hưởng rất lớn bởi xã hội, bởi cộng đoàn. Cho nên Xã hội hay cộng đoàn đóng vai trò rất quan trọng trong việc làm thành nhân cách của một con người. Đời sống tu sĩ là một đời sống cộng đoàn, vì thế mỗi cá nhân trong cộng đoàn chịu ảnh hưởng rất lớn bởi cộng đoàn, bởi những chị em của mình. Chính cộng đoàn sẽ huấn luyện họ.
Chúa Giêsu khi vào trần gian, trong thân phận con người Ngài cũng phải chịu sự đào tạo của một cộng đoàn nhân loại, chịu huấn luyện bởi chính cái chết của mình.

I. Chúa Giêsu lớn lên trong cộng đồng nhân loại.

Với tư cách là một con người Chúa Giêsu cũng phải trải qua những huấn luyện. Chắc chắn Chúa Giêsu chịu ảnh hưởng đời sống văn hoá và tôn giáo của Do Thái giáo lúc bấy giờ. Rồi cuộc đời của Ngài là một cuộc đời vâng phục. Kinh thánh nói Ngài hằng vâng phục Mẹ maria và Thánh Giuse:”Sau đó, Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Na-da-rét và hằng vâng phục các ngài” (Lc 2,51).Ngài đã vâng phục thánh ý Cha và vâng phục cho đến chết. Chính trong đau khổ và cái chết mà Ngài học được bài học vâng phục, nhờ đó Ngài trở nên người thành toàn, làm nguyên nhân ơn cứu rỗi cho con người. Thư gởi tín hữu Do Thái nói:”Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giê-su đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết. Người đã được nhậm lời, vì có lòng tôn kính. Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục; và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người, vì Người đã được Thiên Chúa tôn xưng là Thượng Tế theo phẩm trật Men-ki-xê-đê.” (Dt 5,7-10. Chính cuộc sống, đau khổ là những thử thách là những cách huấn luyện con người của Chuá Giêsu. Thiên Chúa đã huấn lyện Ngài trong đau khổ.

II. Cộng đoàn,một trường học

Cũng như Chúa Giêsu, trong tư cách là người chúng ta cũng phải được huấn luyện, để trở nên những con người tốt lành, và phải chịu huấn luyện cả đời nếu chúng ta muốn trở nên môn đệ của Chúa Kitô.

1. Người huấn luyện

1) Chúa Thánh Thần

Trước khi về trời Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “Nhưng Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em.” (Ga 14, 26) Trong thư thứ nhất của mình thánh Gioan nói:“Phần anh em, dầu mà anh em đã lãnh nhận từ Đức Ki-tô ở lại trong anh em, và anh em chẳng cần ai dạy dỗ nữa.Nhưng vì dầu của Người dạy dỗ anh em mọi sự-mà dầu ấy dạy sự thật chứ không phải sự dối trá-,thì theo như dầu ấy đã dạy anh em, anh em hãy ở lại trong Người.” (1Ga,7)


2) Bề trên và cộng đoàn

Ngoài Chúa Thánh Thần là vị thầy bên trong, còn có vị thầy bên ngoài là bề trên và cộng đoàn. Nói đúng hơn chính Chúa Thánh Thần dạy dỗ người môn đệ Chúa Kitô qua những người hữu hình và qua chính hoàn cảnh của cộng đoàn. Mỗi người phải lắng nghe cho được tiếng Chúa Thánh Thần nói với mình qua bề trên và chị em. Mỗi một chị em trở thành thầy dạy cho chị em mình, theo cách riêng của mình. Bề trên là thầy dạy, có quyền và bổn phận sửa dạy, nhắc nhủ…; nhưng bề dưới cũng là thầy dạy bằng chính đời sống và những góp ý của họ. Chính đời sống cộng đoàn sẽ là thầy dạy cho người tu sĩ suốt cả cuộc đời. Chính đời sống cộng đoàn, mà không cần ai ra lệnh, đòi buộc tôi phải sống thế này thế kia. Nếu tôi không để cho cộng đoàn hướng dẫn tôi thì tôi không phải là thành viên của cộng đoàn.


3) Hoàn cảnh của cộng đoàn


Những đau khổ thử thách của cộn đoàn trở thành thầy dạy cho chúng ta. Một tâm hồn khao khát được Thiên Chúa hướng dẫn sẽ lợi dụng mọi hoàn cảnh của cuộc sống để đào tạo con người của mình. Người đi tìm thánh ý của Thiên Chúa sẽ thấy Ngài bất cứ ở đâu.

2. Người học

Tất cả mọi người trong cộng đoàn, từ bề trên cho đến bề dưới, đều là những người học trò và họ phải học suốt cả đời, học từ chính cộng đoàn của mình. Không ai muốn sống tốt mà lại không muốn làm người học trò. Có thể nói càng lớn bao nhiêu, càng phải học bấy nhiêu. Bao nhiêu lâu con người chưa thành toàn, chưa là con người thật theo hình ảnh của Thiên Chúa trong Chúa Kitô, thì bấy nhiêu lâu con người cần phải được huấn luyện. Bao nhiêu lâu con người muốn sống đời tu, muốn đi theo Thầy Chí Thánh, bấy nhiêu lâu người tu là người học trò, sẵn sàng để cho Thầy huấn luyện mình, qua bất cứ ai, bất cứ hoàn cảnh nào. Bao nhiêu lâu chị em muốn ở lại trong cộng đoàn, muốn sống với chị em mình, bấy nhiêu lâu chị em phải để cho cộng đoàn, cho chị em huấn luyện mình.

3. Những điều cần học

1) Học với Chúa Thánh Thần


Vị thầy dạy chúng ta trước tiên chính là Chúa Thánh Thần. Ngài dẫn chúng ta vào sự thật; Ngài giúp chúng ta hiểu những điều Chúa Giêsu nói với chúng ta; Ngài làm cho chúng ta có khả năng tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa : “Vì thế, tôi nói cho anh em biết: chẳng có ai ở trong Thần Khí Thiên Chúa mà lại nói: "Giê-su là đồ khốn kiếp! "; cũng không ai có thể nói rằng: "Đức Giê-su là Chúa", nếu người ấy không ở trong Thần Khí.” (1 Cr 12,3); Ngài dẫn chúng ta vào trong sự hiểu biết Thiên Chúa vì Ngài “thấu suốt mọi sự, ngay cả những gì sâu thẳm nơi Thiên Chúa.” (1 Cr 2,10) Ngài nâng đỡ sự yếu hèn của chúng ta và dạy chúng ta cầu nguyện “vì chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải; nhưng chính Thần Khí cầu thay nguyện giúp chúng ta, bằng những tiếng rên siết khôn tả.” (Rm 8,26) Ngài làm cho chúng ta sống thông hiệp với nhau; Ngài làm cho chúng ta trở thành mình đích thực….

2) Học với cộng đoàn
Chính cộng đoàn sẽ huấn luyện chúng ta. Chắc chắn có bề trên, có những người hữu trách; những vị này có nhiệm vụ giáo huấn. Nhưng chính đời sống cộng đoàn, chính chị em trở thành thầy dạy về đời sống nhân bản cũng như thiêng liêng cho chúng ta. Cộng đoàn dạy chúng ta:

- Ra khỏi chính mình.
Trước tiên đời sống cộng đoàn dạy chúng ta phải ra khỏi chính mình để sống cho người khác, nghĩa là không còn sống ích kỷ, chỉ bo bo lo cho chính mình. Một tu sĩ sống trong cộng đoàn mà không dám sống cho cộng đoàn, sống chỉ biết lo cho mình thì người đó không bao giờ là người tu sĩ thật, và chắc chắn người đó không bao giờ gặp được bình an và hạnh phúc thật. Muốn sống hạnh phúc người tu sĩ cần để cho cộng đoàn lôi mình ra khỏi óc đảo của mình để sống cho người khác, chẳng hạn hiện diện trong các giờ chung của cộng đoàn: giờ kinh, giờ cơm, giờ hội... Thánh Phaolô : “Mỗi người chúng ta hãy chiều theo sở thích kẻ khác, vì lợi ích của họ, và để xây dựng. Thật vậy, Đức Ki-tô đã không chiều theo sở thích của mình; trái lại, như có lời chép: Lời kẻ thoá mạ Ngài, này chính con hứng chịu” (Rm 15, 2-3)

- Chú ý

Đời sống cộng đoàn dạy chúng ta phải biết chú ý đến người khác, chú ý đến chị em. Ra khỏi mình là không để ý đến mình, nhưng là chú ý đến chị em, đến những nhu cầu của chị em. Việc chú ý đi từ những chuyện nhỏ nhặt đến những chuyện lớn lao; đi từ vật chất đến tinh thần. Mỗi người có nhu cầu riêng, không ai giống ai: người thích ăn thịt, người khác lại thích ăn cá; người này thích quạt, người khác không thích; người thích yên tĩnh, người khác thích nói; người thích đùa, người thích nghiêm, người này có khả năng này, người kia có khả năng khác … Những khác biệt đó đòi chúng ta phải để ý đến chị em mình và tìm mọi cách để chị em phát huy được khả năng của họ và họ có thể sống bình an và vui tươi. Chính khi chúng ta chú ý đến người khác, chúng ta sẽ được chị em khác nghĩ đến mình. Đời sống chung cần sự chú ý để tránh hiểu lầm hay mặc cảm. Đôi lúc vì thiếu sự chú ý, chúng ta gây đau khổ cho người khác. Nhưng chú ý ở đây không mang tính cách tiêu cực: chỉ chú ý những sai sót của chị em để nói xấu, phê bình chỉ trích. Chú ý nào mang lại bình an cho chị em cũng như cho mình thì chú ý đó mới thật là chú ý. Chú ý đây là chú ý của con tim,của tình thương, chứ không phải của ghen tị, tức tối.
Từ chú ý đến người khác chúng ta chú ý đến Thiên Chúa. Một người lơ là với chị em cũng sẽ lơ là với Thiên Chúa, vì “nếu ai nói: "Tôi yêu mến Thiên Chúa" mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy.”(1Ga 4, 20)

- Hy sinh
Chính đời sống cộng đoàn dạy cho ta biết hy sinh: hy sinh thời giờ, hy sinh sức lực, hy sinh sở thích riêng, ý riêng của mình, dù xem ra bên ngoài là chính đáng. Ai muốn sống đời cộng đoàn đều phải hy sinh, và đôi khi có những hy sinh rất đau. Thế nhưng đó lại là yêu sách của đời sống chung. Không có hy sinh thì không có cộng đoàn. Và mỗi người phải hy sinh, chứ không bắt người khác hy sinh. Những trục trặc xảy ra trong các cộng đoàn một phần là do người này bắt người khác phải hy sinh, phải từ bỏ còn mình thì không.


- Nhìn.
Cái nhìn rất quan trọng trong đời sống cộng đoàn. Cái nhìn có thể làm cho người khác đau, nhưng cũng có thể làm cho người khác hạnh phúc. Chính cộng đoàn dạy ta cách nhìn. Cái nhìn ghen tị, tức tối, phê bình chỉ trích, hận thù, khinh bỉ, độc đoán … hoàn toàn không thích hợp với cộng đoàn tu trì: “Ai nhìn với con mắt đố kỵ là người xấu, nó ngoảnh mặt đi và khinh dễ thiên hạ” (Cn 14,8)
Những cái nhìn như thế là chất nổ tiêu huỷ cộng đoàn. Chính cộng đoàn thúc bách chúng ta phải có cái nhìn yêu thương, hiền lành, luôn sẵn sàng tha thứ… Những cái nhìn như thế sẽ mang lại cho cộng đoàn sức sống, chị em gần gủi với nhau, làm cho tâm hồn vui tươi: “Cái nhìn ngời sáng làm tâm hồn vui sướng,”(Cn 15,30)

- Nói:
Tiếng nói rất quan trọng trong đời sống chúng. Cũng một tiếng nói, nhưng với người này thì bình thường, với người khác lại có vấn đề. Cho nên đời sống cộng đoàn sẽ dạy chúng ta phải biết cân nhắc trong lời nói, nói làm sao để người ta cảm thấy đây thực sự là một gia đinh, chứ không phải là một tập thể. Nói sao người khác nghe mình mà không kêu ca, ngược lại cảm thấy mát ruột (ơ đây không để cho lời nói nịnh hót lọt vào). Cho nên lời ăn tiếng nói của người tu sĩ phải nhỏ nhẹ, không cọc cằn, không hóng hách… vì: “Tiếng sáo, tiếng đàn khiến giọng hát du dương,nhưng lời nói dịu dàng còn êm tai hơn nữa.”Hc 40,21) và “ lời nói còn quý hơn quà tặng.” (Hc 18,6)

- Lắng nghe
Cộng đoàn cũng dạy ta phải biết lắng nghe. Lắng nghe và chấp nhận ý kiến của chị em không phải là chuyện dễ. Thông thường, con người muốn người khác nghe mình. Thế nhưng có mâu thuẩn này: không muốn lắng nghe người khác thì người khác cũng sẽ không muốn lắng nghe mình. Nghe luôn là một chuyển động hai chiều. Và nếu người nào không biết lắng nghe thì có thể nói người đó không có khả năng sống đời cộng đoàn. Vì vậy để có thể trung thành với cộng đoàn, người tu sĩ phải biết lắng nghe, và lắng nghe cả đời. Chính đời sống cộng đoàn sẽ dạy ta biết lắng nghe : Lắng nghe tiếng Chúa qua chị em của mình.

- Sống tế nhị:
Người muốn sống cộng đoàn, cần phải biết sống tế nhị, từ những chuyện nhỏ nhạt nhất đến những chuyện lớn. Ví dụ: đừng gây tiếng ồn khi mở hoăc đóng cửa; nhẹ nhàng khi đi lại… Tế nhị trong lời ăn tiêng nói, tế nhị trong cái nhìn …. Một cái nhìn, một lời nói thiếu tế nhị có thể gây đau khổ cho chị em mình. Cách xử sự như thế không chỉ có tính nhân bản, nhưng đó còn nói lên một tâm hồn muốn sống tốt tương quan vói Thiên Chúa ngang qua chị em.

- Nhường nhịn và tha thứ:
Đời sống cộng đoàn luôn gặp những xung khắc. Điều người tu sĩ phải làm là nhường nhịn, tha thứ cho nhau, chấp nhận những yếu đưối của nhau. Một tu sĩ không biết nhường nhịn, tha thứ thì không có khả năng sống đời tu trì. Chính cộng đoàn dạy cho bài học tha thứ và xin tha thứ. Chỉ trong cộng đoàn ta mới kinh nghiệm được yếu đuối của mình và của chị em, để từ đó nhường nhịn và tha thứ. Chính cộng đoàn làm lộ ra cái hèn kém của chúng ta, cái hạn chế của mình để từ đó xin tha thứ. Thánh Phaolô nói : “phải đối xử tốt với nhau, phải có lòng thương xót và biết tha thứ cho nhau, như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em trong Đức Ki-tô.” (Ep 4,32)

- Chờ đợi
Trong cộng đoàn có những người mạnh và cũng có những người yếu. Vì thế chính trong cộng đoàn chúng ta phải học bài học chờ đợi chị em mình. Chị em phải chờ đợi lẫn nhau bởi vì không ai lại không có những “chậm chạp”: chậm chạp về thể lý hoặc chậm chạp về tinh thần, về đời sống thiêng liêng. Chờ đợi là nâng đỡ nhau, Thánh Phaolô nói : “Bổn phận của chúng ta, những người có đức tin vững mạnh, là phải nâng đỡ những người yếu đuối, không có đức tin vững mạnh, chứ không phải chiều theo sở thích của mình” (Rm15,1)

3. Thái độ phải có


Để có tểh trở thành người môn đệ của đời sống cộng đoàn trong đó mọi người từ người lớn cho đến người nhỏ là thầy dạy của chúng ta, chúng ta phải có thái độ khiêm tốn: “Đừng làm chi vì ganh tị hay vì hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình. Mỗi người đừng tìm lợi ích cho riêng mình, nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác. Giữa anh em với nhau, anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Ki-tô Giê-su.” (Pl 2, 3-5) Bước vào một tu viện, điều kiện đầu tiên cho một “người học trò” là tính dễ dạy và sự khiêm nhường. Thật ra hai thái độ này đi đôi với nhau. Không khiêm nhường và trở nên dễ dạy thì chúng ta khó có thể trở thành người môn đệ đích thực của Chúa Thánh Thần của chị em, và của hoàn cảnh tu tì. Thánh Phaolô nói

Kết luận


Người tu sĩ mãi mãi là một cô, cậu học trò. Bao lâu còn sống, họ là một đứa học trò của Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần sẽ đào tạo người môn đệ của mình qua mọi phương tiện: qua bề trên, qua chính cộng đoàn gồm có chị em và hoàn cảnh của cuộc sống. Chính cộng đoàn là nơi thích hợp nhất cho việc đào tạo của Chúa Thánh thần đối với người môn đệ. Và cũng chính cộng đoàn là nơi người tu sĩ học làm người và học làm con Thiên Chúa, qua những lối sống đơn sơ nhưng chứa đầy sự thánh thiêng của người muốn theo Chúa Kitô. Điều người môn đệ làm trong ngôi trường tu viện là phải luôn luôn trở nên khiêm nhường và dễ dạy, luôn sẵn sàng mở lòng cho sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Ngài sẽ dẫn người môn đệ Ngài vào trong sự hiệp thông với Ba Ngôi Thiên Chúa qua những cách cư xử rất tầm thường trong tu viện. Lạy Chúa Thánh Thần xin Ngài đến với chúng con.

No comments:

Post a Comment