
CẦU NGUYỆN ĐÊM NGÀY (JOUR ET NUIT)
Jean Lafrance
Jean Lafrance
Simon Hoà osb chuyển dịch
Cha Jean Lafrance (1931- 1991) chịu chức linh mục tại tỉnh Lille năm 1963, Giáo sư trung học, Phó xứ, Tuyên úy Trường kỹ thuật, nhận ra tiếng gọi mạnh mẽ: thánh hiến đời mình cho việc cầu nguyện.
Sau một thời gian dài suy đi nghĩ lại tại một Đan viện, Ngài quyết định làm tuyên úy cho các nữ tu tại Paris. Từ đó Ngài đã đi khắp nước Pháp và các nước khác để giảng tĩnh tâm và xuất bản nhiều tác phẩm dựa trên một câu nói của Cha Sở Họ Ars: “Con người là một kẻ nghèo cảm thấy nhu cầu phải xin Chúa tất cả”.
Mắc phải bệnh ung thư, Ngài dành thời gian còn lại chuyên giúp dòng Nữ Tỳ Hèn Mọn tại Roubaix, và đã an nghỉ trong Chúa ngày 14 tháng 3 năm 1991.
Lời nguyện cuối cùng. Tác phẩm sau hết. “Cầu Nguyện Đêm Ngày” bản văn từ bên kia thế giới, được đón nhận như một gia sản thiêng liêng. Độc giả của Jean Lafrance sẽ tìm thấy nơi đây như một tâm niệm, những đề tài đã được thưởng thức trong các cuốn sách trước.
Từ cuốn “Cầu nguyện với Cha trong thầm kín” đến cuốn “Xin hãy nói với con một lời”.
Nhưng trong các chương cuối cùng, có những tâm tình sốt sắng mới mẻ, kéo dài giáo huấn của Ngài trong “cầu nguyện” theo trường học các thánh, cho tới nay mới được hé mở.
Tác giả luôn cẩn mật đào tạo “đời sống ẩn kín”- luôn im lặng về mình, nay Ngài thấy cần phải chia sẻ kinh nghiệm cho anh em.
Lời tâm sự đầu tiên, một ánh sáng mới mẻ, một chứng cứ độc đáo chỉ vừa hé mở. Nhưng những điều căn bản đã được soi sáng, tỏ bày. Người ta nhận ra một Sư Phụ cầu nguyện. Người ta phát hiện một con người cầu nguyện.
“Vậy chẳng lẽ Thiên Chúa lại không minh xét cho những kẻ Ngài tuyển chọn, ngày đêm hằng kêu cứu với Người sao? Lẽ nào Người lại bắt họ chờ đợi mãi? Thầy nói cho anh em biết, Người sẽ mau chóng minh xét cho họ. Nhưng khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa không?”
(Lc 18,6-8)
DẪN NHẬP
Mặc dù tựa đề quyển sách đã ám ảnh tôi từ mấy tháng nay, tôi cứ do dự mãi khi bắt đầu viết những trang này, không biết xếp nó vào loại nào. Có nên chia sẻ một kinh nghiệm cầu nguyện liên quan chặt chẽ với những ý nghĩa có tính cách cá nhân, và như vậy phải chăng nó mang tính tự thuật? Hoặc có nên viết một quyển sách theo một trật tự tổng quát hơn về cầu nguyện không ngừng, dựa theo đoạn văn trên của thánh Luca?
Vấn đề còn quyết liệt hơn, khi tôi vừa mới trải qua cuộc giải phẫu lần thứ hai và chẳng biết rồi sẽ ra sao!
Hồi ấy, khao khát nói về “niềm hy vọng trong tôi”, tôi muốn nói với anh em mình rằng tại sao tôi khát khao dâng hiến trọn đời cho việc cầu nguyện. Đồng thời có những lời của Chúa Giêsu thu hút sự chú ý của tôi khi Người dạy các môn đệ cần phải duy trì đời sống cầu nguyện như một hoạt động âm thầm, mặc dầu chỗ khác Người bảo phải để đèn trên giá, để cho người ta thấy được ánh sáng. Và Người thêm: “Vì chẳng có gì bí ẩn mà không trở nên hiển hiện, chẳng có gì che giấu mà người ta lại không biết và không bị đưa ra ánh sáng” (Lc 8,17).
Thông thường trong những trường hợp chần chừ, không biết tìm đâu ra ánh sáng, tôi chạy đến cầu cứu nơi lời cầu nguyện. Đó là điều mà tôi thường làm, để được ơn soi sáng. Như thánh Inhaxiô, tôi đã cầu nguyện nhiều với Ba Ngôi Thiên Chúa và với từng Ngôi. Tôi cũng đã cầu nguyện rất nhiều với Mẹ Maria đồng trinh bằng chuỗi Mân Côi với niềm xác tín tuyệt đối rằng Mẹ sẽ dủ lòng lắng nghe và nhậm lời tôi, dù tôi có tội lỗi mấy đi nữa. Và giống như một tia sáng loé lên, tôi cũng chợt cảm nghiệm ra rằng đã đến lúc phải viết. Tuy những khúc mắc chưa được giải quyết, nhưng tôi đã thấy điều tôi phải viết, nó có giá trị làm chứng như một lời giảng dạy.
Khởi đi từ lời sau đây của thánh Luca mà nhiều lần đọc thần vụ mùa thường niên, trước thánh vịnh 53 (thứ ba tuần thứ hai, kinh trưa), lời đã đánh động tôi và cho tôi bí quyết của cuộc sống: “Vậy chẳng lẽ Thiên Chúa không minh xét cho những kẻ Người đã tuyển chọn, ngày đêm hằng kêu cứu với Người sao? ” (Lc 18,7). Chính từ đó mà phát sinh tựa đề cuốn sách này.
Tin là mình ở trong số những người đêm ngày kêu cầu Chúa, tôi cũng có thể nói rất thật rằng chẳng lẽ Thiên Chúa không xót thương những kẻ tội lỗi đêm ngày kêu cầu Người sao? Bởi vì tôi nhận ra mình là người tội lỗi và cần lòng thương xót hơn là sự công chính. Hơn nữa phần cuối của đoạn Tin Mừng trên, còn mang lại cho tôi cái bí quyết ơn gọi của tôi là dâng hiến cuộc đời cho việc cầu nguyện, vì tôi cảm thấy điều thúc bách tôi hơn cả là sự cầu nguyện thay cho anh em mình, để Con Người tìm thấy niềm tin khi quay trở lại trên trái đất.
MỘT LỘ TRÌNH
Có tiếng gọi cầu nguyện thay cho anh em mình và nhất là cho mọi người. Tiếng gọi đó chỉ mới vang lên trong tôi từ vài năm nay. Nếu cần phải tóm tắt lại trong vài dòng tiến trình cầu nguyện của tôi, và như thế là kể lại một chút về lịch sử đời tôi, vì lời cầu nguyện luôn hoà vào với đời sống, thì tôi sẽ nói rằng ngay từ những năm đầu của tuổi thơ, tôi đã bị thu hút bởi “những chuyện đạo đức”. Rồi rất sớm, trong lứa tuổi vị thành niên và ngay cả khi đã đi giảng dạy, cái hình ảnh đời sống cô tịch cứ thu hút tôi. Lúc bấy giờ, đọc được quyển “Đời sống ẩn giấu trong Thiên Chúa” của Robert de Langeac, tôi đã nhận ra mình trong con người đó, một người chiêm niệm và cầu nguyện cho những tâm hồn sống nội tâm .
Hôm nay, nhìn lại quá khứ xem đâu là duyên cớ cho ơn gọi của tôi, thú thật, tôi thấy việc mình gia nhập chủng viện là do được thu hút bởi đời sống chiêm niệm hơn là chức linh mục. Tôi không lấy làm tiếc vì chuyện đó, bởi ít lâu sau khi chịu chức linh mục, qua Giáo Hội, Chúa đã xếp đặt cho tôi một chức vụ cho phép tôi cầu nguyện và giảng dạy về cầu nguyện. Nhưng tôi nhớ rất rõ là sau khi viết quyển sách đầu tiên: “Học cầu nguyện với xơ Elisabeth de la Trinité” thì Bề Trên của tôi bảo: “Đó không phải là lối sống thiêng liêng của một linh mục triều.” Phần nào đó, ngài có lý, nhưng liệu tôi có thể làm gì khác hơn nếu cảm thấy mình được kêu gọi sống cuộc đời chiêm ngưỡng như dòng kín Carmêlô?
Sau đó, phải công nhận rằng những luyện tập mà tôi học với cha Laplace (4 ngày, 8 ngày, 10 ngày, và 30 ngày) đã dẫn tôi vào đời sống thiêng liêng và nguyện ngắm theo kiểu của thánh Inhaxiô: xoáy mạnh vào việc chiêm ngưỡng trong hoạt động. Điều đó làm cho tất cả những lần tĩnh tâm của tôi giữ được lược đồ và cấu trúc cho những thực tập. Tôi nhận thánh Inhaxiô và các thánh thuộc dòng kín Carmêlô như những thầy dạy cầu nguyện của mình.
THỜI KỲ KHÓ KHĂN
Để vắn gọn và nhất là để không kể lể dài dòng về mình, tôi xin nói rằng lúc khoảng chừng 40 tuổi, tôi đã ở vào một thời kỳ rất là khó khăn, như các phi công thường nói thế. Thời kỳ đó kéo dài trong vòng 12 năm. Chính lúc ấy tôi mới khám phá ra lời cầu nguyện khẩn nài, dưới áp lực “không khí ” của ảo não và của ân sủng. Không phải duy mình tôi khám phá ra được điều đó, nhưng cha Maria Dominicô Môliniê, linh hướng của tôi, đã dẫn tôi vào đó. Ở đây tôi phải thú nhận là sau Chúa Thánh Thần, tất cả những gì tôi biết về cầu nguyện khẩn nài và thay thế đều do ngài mà đến, từ những lời giáo huấn bằng lời cho đến những bài viết của ngài. Khi người nào được đắm chìm trong lời khẩn nguyện, thì người ấy chỉ có thể dạy khẩn nguyện mà thôi. Điều này được lập đi lập lại lúc thuận cũng như lúc nghịch, đến nỗi làm điếc tai người nghe.
Thời kỳ sôi động ấy kết thúc nhờ câu: “Ta sẽ chữa ngươi bằng cầu nguyện và chỉ duy bằng cầu nguyện mà thôi”. Tôi không bày tỏ ý kiến của tôi về nguồn gốc của câu này, những lời đã gợi lên trong tôi vào lúc mà tôi rất ít nghĩ tới. Điều chắc chắn đó là sự tiến triển dần dần màø có thể còn rất nhanh là đàng khác. Tôi đã đi vào trong bầu khí đầy yên tĩnh và bình an hơn nhiều. Nhưng nếu những thử thách về luân lý và tinh thần chấm dứt, thì tôi không thể tưởng tượng được những đau đớn khủng khiếp về mặt thể lý đang xảy đến với tôi. Thật là thú vị, vài giờ trước khi viết điều này, một nữ tu đến nói với tôi: “Ai viết về cầu nguyện phải cầu nguyện nhiều và phải chịu đau khổ nhiều”. Điều đó liên quan thật chính xác với một lời của thánh Rosa de Lima nói với bác sĩ của ngài là Castillô: “Đặc sủng càng nhiều bao nhiêu thì thập giá càng lớn bấy nhiêu”. Tôi không tin rằng tôi có những đặc sủng, nhưng đối với những thập giá, thì tôi nghĩ tôi có thể đếm được.
Những vết thương
Ở đây tôi không muốn đi vào chi tiết, nhưng việc cắt bỏ một lá phổi và những lúc chiếu quang tuyến tiếp theo đó, đã làm tôi đau đớn rất nhiều. Tôi hiểu ra lời sau đây của thánh nữ Tê-rê-sa thành Lisieux: “Đau đớn sẽ qua đi, nhưng hậu quả vẫn còn đó”. Không kể đến nỗi chán chường tinh thần của kẻ mắc bệnh ung thư và luôn cảm thấy trên đầu mình là lưỡi gươm của Damoclès. Có một lời đã nâng đỡ tôi suốt những tháng thử thách, đó là lời của Mẹ Maria-Renyse, cựu Bề Trên tổng quyền của dòng Đức Mẹ Lên Trời. Sau nhiều tháng sống ở C.H.U. de Bordeaux, biết mình mắc bệnh bạch huyết, Mẹ đã sống trong 4 hoặc 5 năm với căn bệnh đó, và Mẹ đã ghi trong cuốn sổ tay câu sau đây: “Người ta không chết vì căn bệnh, nhưng người ta chết vì Thiên Chúa bảo: “Giờ ngươi đã điểm, hãy đến!”. Thánh Tê-rê-sa thành Lisieux cũng nói một lời tương tự như thế.
Liệu tôi có cần nói rằng lúc bấy giờ tôi đã khẩn nài thế nào không? Vả lại, lời khẩn nài đã làm thành vết thương trong tôi. Mỗi khi người ta khẩn nài trong chân lý, người ta không thể quên được vết thương đó, ngay cả khi tiếng kêu dịu xuống, những lúc được bình an hơn. Điều đó trở thành trong con người chúng ta như một bản tính thứ hai. Hơn nữa, tiếng khẩn nài trở thành bản tính của bạn bởi vì hữu thể bạn chính là sự cầu nguyện. Điều đó chắc chắn phải trở thành tiếng khẩn nài thường xuyên của các thánh, tiếng khẩn nài đã vượt qua bức tường âm thanh, để đi vào trong tốc độ vô tận của vũ điệu nơi đời sống Ba Ngôi Thiên Chúa. Dầu vậy, tôi muốn làm một ghi chú mà tôi cho là căn bản: không có một sự cân xứng nào giữa hai lời khẩn nài sau đây: một là lời khẩn nài được kích thích do một tình cảnh quá khốn đốn của con người, dù là về mặt thể lý hoặc tinh thần, nó vọt lên từ con tim chúng ta và có thể là thường xuyên; hai là lời khẩn nài được đốt lên do Chúa Thánh Thần vào lúc mà chúng ta không nghĩ tới chút nào. Khi đó chúng ta vượt qua từ tốc độ thứ ba sang tốc độ thứ tư. Khi đó chúng ta sống với một lời khẩn nài mà con người không thể diễn tả nổi, bởi vì một lời cầu nguyện như thế không nảy lên từ mặt đất, nhưng phát xuất từ trời cao, ít xảy ra và không lệ thuộc chúng ta. Đó là một ơn ban của Thiên Chúa. Người ta không thể quên ơn ấy vì nó để lại trong con tim một vết thương, một vết bỏng, một nỗi nhớ nhung vô phương cứu chữa, và khi ơn ấy thiếu vắng, thì người ta lại rơi vào lời cầu xin nhân loại thường tình như mọi người, một tác giả thế kỷ thứ IV đã nói thế. Người ta chỉ có thể xin cho được lời khẩn nài đó, khi ước ao khao khát nó. Vì, làm nẩy sinh trong con tim chúng ta lời khẩn nài của Chúa Thánh Thần, điều đó không thuộc quyền chúng ta.
Lời cầu nguyện chữa lành
Sau cuộc giải phẫu ấy, cuộc sống vẫn tiếp tục, nhưng tôi đã phải từ bỏ nhiều hoạt động, vì sức khỏe suy giảm rõ ràng, và tôi không thể trải qua một ngày mà không đau đớn cách này hay cách khác, nhưng đồng thời có chút quen thuộc gì đó với mọi sự, kể cả đau đớn.
Thật hạnh phúc khi có sự cầu nguyện. Thực tế tôi chỉ còn làm được điều đó nữa mà thôi. Chính cầu nguyện đã nâng đỡ và tạo nên toàn bộ sức mạnh của tôi.
Nhiều lần tôi đã tự hỏi sao Chúa không gọi tôi về với Người. Nhưng tôi đã giảng tĩnh tâm hai lần, và mỗi lần Thiên Chúa đã ban cho tôi sức mạnh cần thiết, đồng thời tỏ cho tôi cách rõ ràng là Người còn muốn tôi tiếp tục giảng dạy. Tôi đã nhận được ánh sáng này cách đây một tháng vào lần tĩnh tâm sau cùng của tôi.
Rồi đã xẩy ra lần giải phẫu thứ hai, ngày 25 tháng 5 vừa qua. Người ta đã phát hiện ra một cục bướu thuộc tuyến giáp trạng trước khi mổ phổi. Nhưng điều đó không làm tôi khó chịu như người ta nghĩ. Một ngày đẹp trời, cục bướu đó đã đụng đến những sợi thanh quản, tôi không nói được nữa, lúc bấy giờ người ta mới quyết định giải phẫu. Mọi sự đã xẩy ra tốt đẹp dù tôi có sợ sệt. Thật thế, việc phẫu thuật đã thành công, nhưng các nhân viên phòng thí nghiệm tế nhị cho tôi biết những phân tích thiết yếu đã phát hiện ra một vài tế bào không nhận dạng được. Bác sĩ giải phẫu đề nghị tôi chịu một cuộc điều trị phụ bằng quang tuyến. Điều đó chẳng làm tôi thích thú tí nào.
Và chính vì vậy mà đã xẩy ra một phép lạ nho nhỏ, không kể những phép lạ khác đã giữ gìn tôi sống đến ngày hôm nay. Một người bạn đã cho tôi biết là cha Tardif đến tĩnh tâm một ngày ở Nouan- le- Fuzelier. Vì vậy tôi đã đến gần Orléans. Phải mất 5 giờ để đi đến đó và quay trở về cũng bằng ấy giờ nội trong ngày. Tôi đã tham dự đại hội cầu nguyện dưới trời mưa, tôi không nghĩ sẽ gặp được Cha trong một đám đông như thế (năm ngàn người). Và này lúc mặt trời ngã bóng, tôi đi về phía khán đài để chờ đợi bài giáo huấn thứ hai về việc chuyển cầu, điều mà tôi rất chú ý, và tôi gặp được cha. Ngài đã nhận được một lá thư liên quan đến chủ đích của tôi, và ngài biết chủ đích đó là gì. Ngài đã đón tiếp tôi rất thân tình, đầy tình huynh đệ và rất tốt đối với tôi.
Ngài có biết qua về tôi nhờ mấy quyển sách của tôi được dịch ra tiếng Bồ-Đào-Nha ở Saint -Dominique, ngài rất thích quyển “Sức mạnh của lời cầu nguyện” (La puissance de la prière). Ngài kéo tách riêng tôi vào trong nhà thờ, và đã cầu nguyện cho tôi bằng một lời kinh chúc tụng ngợi ca. Tôi đã ở kề ngài để đón nhận lời giáo huấn, và tôi đã cùng cử hành thánh lễ tạ ơn. Trong thánh lễ có một lời cầu xin đặc biệt cho được khỏi bệnh và có rất nhiều chứng cứ cho thấy tôi được chữa lành. Khi ấy tôi không còn thấy mệt và tất cả những đau đớn dường như biến tan.
Tôi tin rằng đó là phép lạ! Nhiều lần ngài báo cho biết là vào lần đi gặp bác sĩ sắp tới, sẽ có dấu là việc điều trị bệnh được dự trù trước đây sẽ vô hiệu. Sau đó một tuần tôi phải đi gặp bác sĩ chữa trị bằng quang tuyến để chuẩn bị cho việc điều trị. Sau khi khám bệnh cho tôi, ông tuyên bố là các quang tuyến không cần thiết vì tôi đã được chiếu quang tuyến rồi, nhưng ông đề nghị tôi thực hành vài luyện tập bổ túc. Lúc bấy giờ tôi vui mừng tạ ơn Chúa, vì tôi đã chạm vào bàn tay quyền năng của Đấng Phục Sinh. Lời cầu nguyện thốt lên ở môi miệng tôi là lời cầu nguyện của Chúa Giêsu dâng lên Chúa Cha lúc Người cho Lazarô sống lại. Còn tôi lại thưa với Chúa Giêsu: Lạy Chúa Giêsu, con tạ ơn Chúa vì Chúa đã nhậm lời con, con biết rõ Chúa luôn nhậm lời con.
Ngoài những sự kiện đáng chú ý trên, tôi phải thú nhận tôi thường (không nói là luôn luôn) kinh nghiệm về sức mạnh của lời cầu nguyện trong việc làm vơi đi những khổ tâm và đau đớn. Trong những lúc dường như tất cả đè nặng lên tôi, thì tôi bắt đầu cầu nguyện (đó còn là một ân sủng) và tôi thoát khỏi đó trong tình trạng bình an, đau đớn biến mất, giống như trở bàn tay vậy.
Vào lúc tôi viết những giòng này, thì xảy ra lễ an táng bạn tôi là Jean Leclercq (52 tuổi). Người ta cắt mất của ngài một lá phổi cách đây bốn, năm tháng, thì tháng 6 xuất hiện một khối u ở trong não. Mới đây, tôi có đến thăm ngài, và với sự bẽn lẽn, dè dặt, ngài đã dấu tôi tình trạng của mình. Vị Linh Mục này là một người chân thật, đầy tình người và tình bạn, đồng thời là người của Thiên Chúa . Chính hôm qua và sáng nay tôi đã xin với ngài, và tôi cảm thấy sự hiện diện và can thiệp của ngài trong điều mà ngài đã để lại cho tôi trong ơn gọi sâu xa của tôi bằng cách ban cho tôi ơn cầu nguyện.
Ai đã dạy tôi cầu nguyện?
Sau một chút quay trở lại với tiểu sử, đã đến lúc phải trở lại với lời của thánh Luca giải thích cho đời sống của tôi hôm nay. Quay trở lại một chút với tiểu sử, có tầm quan trọng là để hiểu cách Chúa Thánh Thần tạo nên con người cầu nguyện và làm cho nó khám phá ra ơn gọi tối hậu của mình. Người ta thường nghĩ, chỉ cần được mời gọi cầu nguyện, khao khát cầu nguyện và muốn cầu nguyện thế là đủ để trở thành một con người cầu nguyện. Về điểm này, chúng ta lầm lẫn ở tận căn: trên hết, chính những thử thách dạy chúng ta cầu nguyện.
Chúng ta không bao giờ lặn sâu cho đủ vào đáy của khốn quẫn để kêu lên cùng Thiên Chúa, bởi vì tiếng kêu gào lên từ đáy sâu của tâm hồn thì luôn luôn được nhậm lời.
Ngay ngày hôm nay, sau khi đã kêu van rất nhiều và sau khi ở trong một tình trạng mà tôi không còn một giải pháp dự bị nào nữa cho bằng lời cầu nguyện, thì trong sâu xa của lòng mình tôi vẫn tin chắc rằng tôi vừa mới bắt đầu cầu nguyện. Cho dù những tiếng kêu khốn quẫn có thảm thiết như thế nào đi chăng nữa, nếu không bởi con tim cầu nguyện, thì chúng chẳng thấm vào đâu sánh với tiếng kêu nài mà Thiên Chúa chờ đợi. Nhưng vậy, hài hước mà nói, hầu như có thể chúng ta chưa bắt đầu kêu xin. Không phải tôi nói điều đó, nhưng chính Chúa Giêsu cảnh cáo các Tông Đồ khi Ngài nói: Cho tới bây giờ, anh em chưa xin gì. Hãy xin và anh em sẽ được, như thế niềm tin của anh em sẽ nên trọn vẹn. (Ga 16,24)
Nhưng tôi cũng nhận thấy rằng tôi sẽ không biết gì về cầu nguyện kêu van, nếu tôi đã không hiểu những thử thách mà tôi đã trải qua, thực ra nhiều tu sĩ và ngay cả Linh Mục cũng không nhận ra ơn lớn lao của cơn khốn quẫn. Và trong ý nghĩa đó, tôi tạ ơn Thiên Chúa đã cho tôi trải qua những thử thách bởi vì đó là phương tiện duy nhất để tôi chìm sâu trong cầu nguyện. Câu chuyện mà tôi đã kể trong cuốn “Cầu nguyện của con tim” sẽ giúp các bạn hiểu hơn.
Đó là câu chuyện về một chàng thanh niên Hy-lạp tên là Maxime, anh nghe được lời mời gọi đi vào sa mạc để thực hiện lời của Chúa: “Phải cầu nguyện luôn, không bao giờ được nản chí.” Anh ta ra đi và ngày đầu tiên trôi qua tốt đẹp. Anh ta cầu nguyện suốt ngày với Kinh Lạy Cha và Kinh Kính Mừng. Nhưng khi màn đêm buông xuống, trời tối om, và anh ta bắt đầu thấy xuất hiện những hình dạng và những ánh mắt sáng quắc trong những lùm cây. Lúc bấy giờ anh ta bắt đầu cảm thấy sợ hãi và lời cầu nguyện của anh ta lúc đó trở nên khẩn thiết hơn: Lạy Chúa Giêsu con vua Đa-vít, xin thương xót con tội lỗi. Rồi anh thiếp ngủ đi. Buổi sáng khi thức dậy, anh lại bắt đầu cầu nguyện như hôm trước, nhưng vì còn trẻ, anh cảm thấy đói khát và phải đi tìm cái ăn. Lúc bấy giờ anh bắt đầu cầu xin Chúa ban của ăn cho anh, và mỗi khi anh tìm được cái gì ăn là anh nói: “Tạ ơn Chúa”. Tối đến, với những khiếp sợ của ban đêm, và anh lại bắt đầu với lời kinh Chúa Giêsu. Dần dần anh vừa làm quen với các nguy hiểm bên ngoài, với cơn đói khát, vừa quen với sức nóng mặt trời; nhưng vì còn trẻ anh lại chịu các cám dỗ đủ thứ trong con tim, linh hồn và tinh thần của anh. Bởi đã quen với những cuộc chiến đấu, anh lại dùng kinh Chúa Giêsu. Ngày này qua ngày nọ, tháng này qua tháng kia, năm này qua năm khác cứ theo nhau đi, và cùng với nhịp điệu đó, luôn là những cám dỗ, với lời cầu nguyện , với thử thách, với những lần té ngã và chỗi dậy. Một hôm sau mười bốn năm, bạn bè của anh đến gặp anh và sững sờ xác nhận rằng anh đã trở thành con người cầu nguyện luôn. Bấy giờ họ mới hỏi anh: “Ai đã dạy anh cầu nguyện liên tục?” Và Maxime trả lời với họ: “Đơn giản thôi, chính là ma quỷ!”
Khi kể câu chuyện này, Mgr Antoine Bloom nói: “Theo nghĩa đó, thì cầu nguyện liên tục trở nên dễ dàng trong một đời sống hoạt động, ở đó người ta bị quấy nhiễu tứ phía hơn là trong đời sống chiêm niệm, nơi mà người ta không phải lo lắng gì”. Chính những thử thách, những chán chường, những đau khổ và những khốn quẫn làm phát sinh lòng trung kiên; chính sự trung kiên này đẩy ta đến cầu nguyện không ngừng.
Nhưng còn có một bước cần phải vượt qua đó là người ta có thể yêu mến cầu nguyện, và ngay cả cầu nguyện rất nhiều, như anh chàng Maxime, dưới sức nặng của đau khổ và ân sủng, nhưng từ đó bên cạnh những người được chọn để đêm ngày kêu lên cùng Thiên Chúa, còn có một khoảng cách cần phải vượt qua. Tuy nhiên cái đà trớn cho cuộc vượt qua này không đến từ chúng ta, nó đến từ một tiếng gọi đặc biệt của Chúa Thánh Thần, đặt chúng ta -thường chúng ta không ngờ- vào trong một tình trạng mà người ta không thể làm gì khác hơn là cầu nguyện. Ngày nay có những người được kêu gọi để thực hiện một khía cạnh tuyệt vời trong cuộc đời Chúa Giêsu, đó là Người cầu nguyện trong cô tịch, tách biệt với mọi người, ngày cũng như đêm, buổi sáng lúc rạng đông, hoặc ban tối tới khuya. Lại cũng có những người khác được kêu gọi thể hiện sứ vụ loan báo Tin Mừng Nước Trời của Người, qua lời nói và những dấu chỉ như chữa bệnh và giải cứu, được thực hiện qua những bệnh nhân và người bị quỷ ám. Không một tông đồ nào dám cho rằng một mình mình có thể diễn lại toàn bộ cuộc đời của Chúa Ki-tô, và kẻ nào muốn làm mọi sự thì thực sự chả làm được gì cả! Người ta nhận ra một Ki-tô hữu trưởng thành ở chỗ này là trong khi khao khát ôm lấy vũ trụ, người ấy tìm gặp niềm vui và nghỉ ngơi của tâm hồn bằng cách dừng lại nơi một công việc xác định cụ thể. Dù đó là một công việc hèn kém: (Điều người ta nói về thánh Ignace).
1.NGÀY ĐÓ, CHÚA GIÊSU CẦU NGUYỆN
Ở MỘT NƠI THANH VẮNG…
Trong ơn gọi này, tất cả bắt đầu bằng một sự quyến rũ. Cách đây 20 năm, khi tôi tĩnh tâm ở Côte-d’Ivoir, ở Sokodé. Khí hậu rất nóng và ẩm thấp, và trong giờ kinh tối, tôi gặp được lời này của thánh Lu-ca: “Chúa Giêsu đi ra núi để cầu nguyện, và Người đã thức suốt đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa”(Lc 6,12). Bất chợt trong tôi nhóm lên một khát vọng là sẽ thức suốt đêm, như Chúa Giêsu, để cầu nguyện với Thiên Chúa. Chẳng ai biết ước muốn đó phát xuất từ đâu, nó vọt lên từ những vùng sâu thẳm của con tim và xâm chiếm toàn bộ con người bạn. Tôi sẽ không bao giờ quên được biến cố đó. Tôi xin thêm ngay điều này -và đây là tất cả nghịch lý của ơn gọi- khao khát có thể là thật, đồng thời, yếu đuối của xác thịt lại ngăn chặn chúng ta thực hiện khao khát đó cho đến cùng. Ở trong lòng khao khát của chúng ta nhưng ơn gọi lại không ở sức thực hiện của ta. Tôi sẽ còn lập lại điều này là,trong lãnh vực của sự cầu nguyện liên tục, cần trở thành điên dại trong các ước muốn của mình và khôn ngoan trong việc thực hành chúng, vì một lý do rất đơn giản là toàn bộ hữu thể chúng ta, và trước tiên, thân xác chúng ta, không hoàn toàn được Chúa Thánh Thần nắn thành và khôi phục lại. Nếu ngày nào đó, nhờ ơn Chúa, chúng ta trở nên “tự nhiên” đối với việc cầu nguyện, chúng ta sẽ không còn tự hỏi mình làm thế nào để cầu nguyện không ngừng, nhưng là làm thế nào để ngừng cầu nguyện, vì cầu nguyện sẽ tuôn trào trong chúng ta như một nguồn nước không bao giờ cạn.
Nhưng tất cả bắt đầu bằng sự thu hút mãnh liệt của Chúa Giêsu trong khi Người cầu nguyện. Thật không dễ dàng mà nói về cái sự kiện, đến đúng lúc từ một lời của Tin Mừng: “Một hôm, Chúa Giêsu đang cầu nguyện”. Hoặc do chiêm ngắm bức tranh Chúa Cứu Thế, như trường hợp của thánh Silouane. Đó là một biến cố dưới hình thức cái nhìn, như ánh mắt Đức Giêsu trên ông Mát-thêu thu thuế chẳng hạn, hoặc như hai ánh mắt gặp nhau giữa Chúa Giêsu và anh trộm lành, hoặc hơn nữa như Maria Madeleine khóc lóc dưới chân Chúa Giêsu, hay như Maria khác, em của Marthe, lắng nghe lời Người. Đó là một trực giác bao quát trên lời cầu nguyện của Chúa Giêsu (một “cái nhìn” như Tauler đã nói). Thoạt đầu người ta không thể nói ngay rằng mình hiểu một cái gì đó về việc cầu nguyện của Chúa Giêsu hoặc mình được dẫn vào đó(có lẽ sẽ đến sau). Ở đó, người ta gắn bó với Chúa Giêsu trong cầu nguyện và không thể bứt ra khỏi Người được nữa. Thánh Ignace nói rằng khi ấy, người ta giống như một kẻ bần cùng được đón vào một bữa tiệc linh đình, cứ trợn tròn mắt ra mà kinh ngạc. Đúng như Isaia đã nói, lúc đó người ta sững sờ và kinh ngạc. Người ta kể rằng cha Martin Moye, con người hạnh phúc, ban sáng, khi cử hàng Thánh Lễ Tạ Ơn, không thấy thời gian trôi qua và vào lúc hai giờ, cha sở phải đi tìm, mời ngài về dùng bữa chiều.
Chính nơi “cái nhìn” ấy, người ta cảm thấy cần phải ở lại trong đó nhưng không biết tại sao. Tuy nhiên, dù không hiểu gì cả, người ta vẫn nghiệm thấy rằng ở trung tâm lời cầu nguyện của Chúa Giêsu, thế giới được móc nối với Ba Ngôi Chí Thánh, và Ba Ngôi hiện diện với thế giới. Đó là điểm tựa, nâng đỡ nhân loại trong Thiên Chúa. Theo một châm ngôn của các đan sĩ Chartreux- những người dâng mình duy chỉ cho việc cầu nguyện:“ Stat Crux, dum volvitur orbis” thập giá còn đứng sững đó bao lâu trái đất này còn quay. Người ta có thể diễn dịch câu châm ngôn đó theo cách sau đây: Trên dòng chảy điên khùng của thế giới đang lao về hư mất, có hai đầu cây gỗ hình thập giá được cắm ở trung tâm địa cầu để ngăn chặn thế giới đang đi vào vực thẳm. Thập giá đó chính là Đức Giêsu đang cầu nguyện, đang kêu van với Chúa Cha cho anh em mình: Lạy Cha xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm. Ngay khi con người được ghi dấu bằng sắt nung đỏ do lời cầu nguyện này của Chúa Giêsu, thì nó không bao giờ quên được, lời cầu nguyện đó thiêu đốt nó trong lòng như thể một ngọn lửa vậy, và không bao giờ cho nó nghỉ ngơi. Cũng như thánh Đa-minh, nó gào lên: “Ôi Chúa Giêsu, lòng xót thương của con, những người tội lỗi sẽ trở thành cái gì?” Không từ ngữ nào có thể diễn tả được cách mạnh mẽ một lời cầu nguyện như thế, đúng hơn đó là sự huy động toàn thể sinh linh nơi Đức Giêsu cầu nguyện. Đó là một biến cố hoàn toàn nội tâm, và người ta có thể ở bên cạnh con người sống đời sống đó nhưng không hay biết gì, vì bề ngoài con người đó sống như mọi người: ăn uống, ngủ nghỉ, nói chuyện, làm việc, thư giãn. Nhưng tất cả xảy ra trong “cung thánh nội tâm của lòng trắc ẩn” như trường hợp thánh Đa-minh chẳng hạn. Dù vậy cũng có những dấu hiệu không lầm lẫn được đó là sự vô cùng khiêm tốn và tình bác ái huynh đệ. Ngay khi người ấy rảnh rỗi chút xíu là anh bắt đầu quay trở lại với lời cầu nguyện của Chúa Giêsu hoặc trong nơi sâu thẳm của tâm hồn, hoặc trong bí tích Thánh Thể.
Khi Người cầu nguyện xong. . .
Nếu người ta tin vào Tin Mừng của thánh Lu-ca, thì các tông đồ đã bắt gặp được Chúa Giêsu đang cầu nguyện. Họ đã rình xem Người rút mình lên núi để cầu nguyện ban đêm, hoặc dậy sớm trước lúc rạng đông để đối thoại với Cha như Người đã làm lúc chiều tối. Người có nói với họ không? Đúng hơn dường như Ngài đã bắt đầu bằng cầu nguyện và điều đó đã làm cho họ đặt vấn đề. Thánh Lu-ca diễn tả như thế này: “Có một lần Đức Giêsu cầu nguyện ở nơi kia. Khi người cầu nguyện xong…” Người ta có cảm tưởng là các môn đệ vô cùng cảm kích do việc Chúa Giêsu cầu nguyện, đến nỗi họ không muốn quấy rầy Người, nên đã để cho Người cầu nguyện xong. Việc cầu nguyện đó khác với việc cầu nguyện của các Pharisiêu, ngay cả với việc cầu nguyện của ông Gio-an Tẩy Giả và các môn đệ ông. Chắc chắn đó là một sự cầu nguyện hoàn toàn mang tính nội tâm, một thái độ lòng bên lòng với Cha, hoặc đơn giản hơn, một sự chú tâm đầy yêu thương chuyên hướng về Cha, hoặc một sự lắng nghe lời Cha. Các môn đệ không cần hiểu rõ đó là gì, cũng như một con người không bao giờ được đánh thức ở thế giới nội tâm của nguyện ngắm thì sẽ rình xem người khác hồi tâm và dồn hết tâm lực nội tâm vào cái mầu nhiệm được giữ kín của nguyện ngắm và hỏi: “Anh ta có thể làm gì tốt không?” Đó thường là thái độ của một đứa trẻ thấy cha hoặc mẹ nó cầu nguyện. Tuy nhiên lời cầu nguyện này trào lên từ nội tâm và tràn ra bên ngoài. Nó cứ vượt ra cho đến khi xuyên thủng da, qua lỗ chân lông để trở thành khả giác và gần như có thể chạm đến được. Và khuôn mặt chính là nơi để cho lời nguyện bên trong tràn ra trở thành hữu hình. Người ta nói rằng ánh sáng ẩn giấu bên trong rất mạnh và đầy sức sống đến nỗi nó có thể xuyên qua những bức tường bên trong của con người để chiếu sáng ra bên ngoài. Ít ra đó là điều mà thánh Lu-ca còn để lại cho chúng ta trong đoạn nói về cuộc biến hình. Trong hai câu đầu của bài viết, trước tiên ngài ghi chú rằng Đức Giêsu ra đi đến núi để cầu nguyện với Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an, và để chỉ rõ ra rằng chính trong cầu nguyện mà xẩy ra cuộc biến hình, ngài nhấn mạnh: “Đang lúc Người cầu nguyện, dung mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh, chói lòa” (Lc 9,28-29). Không còn nghi ngờ gì nữa, Lu-ca cho chúng ta hiểu được rằng hiệu quả đầu tiên của cầu nguyện là có khuôn mặt mới và thái độ bên ngoài cũng đổi thay. Trong nơi sâu thẳm của lòng mình Đức Giêsu không ngừng cầu nguyện, nghĩa là luôn ở trong cuộc đối thoại với Cha, hoặc đơn giản hơn, Người luôn thông hiệp với cái nhìn của Cha, Đấng thấy rõ trong nơi bí ẩn. Nhưng một khi tương quan này căng ra, không còn có thể giấu giếm được nữa, thì phải xuất hiện ra bên ngoài thôi.
Lúc bấy giờ chắc chắn các môn đệ có chút gì đó khờ khạo; nhưng bị cuốn hút bởi việc cầu nguyện nội tâm đó, họ không biết nói làm sao để xin Chúa Giêsu dạy cho họ cầu nguyện. Khi ấy, họ dùng một câu sáo ngữ mà ai cũng biết, nhưng mang ý nghĩa sâu xa hơn nhiều so với điều người ta tưởng. Đó là câu hỏi mà mỗi người tự đặt cho mình khi thấy một trong các anh em của mình đang chìm đắm trong cầu nguyện. Khi Người cầu nguyện xong, một trong các môn đệ đến xin: “Thưa Thày, xin dạy chúng con cầu nguyện, cũng như ông Gio-an đã dạy các môn đệ của ông” (Lc 11,1). Đó chính là câu vấn đề mà người ta đặt cho một vị thày như Gio-an tẩy giả chẳng hạn. Vị này sẽ “ bật mí ” cho họ những công thức cầu nguyện hoặc, trong trường hợp tốt nhất, ngài dạyï một phương pháp.
Điều lý thú ở đây, trước tiên không phải là công thức Kinh Lạy Cha mà Chúa Giêsu sắp dạy hoặc trao cho các môn đệ, và chúng ta đã suy tư về công thức đó rồi, nhưng trước tiên đó chính là mầu nhiệm lời cầu nguyện của Chúa Giêsu ở trung tâm vũ trụ. Đó là một biến cố hoàn toàn mới lạ mà chưa bao giờ xảy ra trước ngày Giáng Sinh và sẽ kết thúc ngày Lên Trời của Chúa Ki-tô; nghĩa là ở trong tâm của vũ trụ và lịch sử, có lời cầu nguyện của Ngôi Hai trong Ba Ngôi, lời cầu nguyện của Ngôi Lời Nhập Thể. Đó là một biến cố chưa từng nghe tới, không thể nghĩ tới mà con người sẽ không bao giờ ngơi chiêm ngắm và thăm dò. Ngay khi Ngôi Lời mặc lấy xác phàm trong lòng mẹ Maria vào ngày thiên thần truyền tin, thì người ta có thể nói lời cầu nguyện của Thiên Chúa đã có đó, ở trung tâm nhân loại. Dù muốn dù không thì mặt đất này đã thay đổi.
Thiên Chúa gắn chặt số phận Người với nhân loại. Từ đây người ta không thể nói về Thiên Chúa mà không đồng thời đề cập đến con người, và ngược lại không thể nói về con người mà không đồng thời nói về Thiên Chúa. Những số phận đó kết chặt lấy nhau không thể gỡ ra được nữa. Nhờ vậy mà con người không cần phải vươn lên để gặp Thiên Chúa nữa, nhưng nó cần trở về tìm gặp Người ở nơi con tim nhân loại của mình. Từ trước tới nay, cầu nguyện là nâng mình lên cùng Thiên Chúa và dâng lên Người lời kêu xin hoặc để diễn tả tình yêu hoặc nói lên sự biết ơn. Nhưng bây giờ cầu nguyện cốt ở chỗ là thực hiện hoặc ý thức về lời cầu nguyện của Đức Kitô ở trong lòng nhân loại hoặc trong tâm hồn mỗi người chúng ta.
Sống với Chúa Ki-tô, các môn đệ kinh nghiệm được rõ ràng hành vi cầu nguyện của Người và lời cầu nguyện của Thiên Chúa, như họ đã kinh nghiệm về Ba Ngôi trong khi đi vào đám mây: “Một đám mây sáng chói bao phủ lấy các Ngài và họ hết sức sợ hãi” (Lc 9,34). Hành vi cầu nguyện đó của Chúa Giêsu cũng tạo nên phần thiết yếu cho sứ vụ của Người, bởi vì Chúa Giêsu không chỉ đến để nói với con người về Chúa Cha, nhưng nhất là nói với Cha về con người. Nói cách khác, người ta không biết tại sao Người đã dành nhiều thời gian để cầu nguyện theo như các sách Tin Mừng đã thuật lại. Và người ta cũng không hiểu tại sao con người ngày nay còn cố gắng hiện tại hoá trên trái đất này hành vi cầu nguyện đó.
Chính bởi vì các tông đồ đã cảm nghiệm được rằng Chúa Giêsu đã sống cái tương quan đặc biệt với Cha Người và hành vi cầu nguyện đó hoàn toàn khác với việc cầu nguyện của các môn đệ Gio-an hay Pharisiêu, mà họ đã xin Người dạy cho họ cầu nguyện và Người đã chỉ cho họ Kinh Lạy Cha. Có phải họ xin điều đó là để được cầu nguyện với Người, hoặc để liên kết với hành vi cầu nguyện của Người hoặc để kéo dài lời cầu nguyện đó, khi Người rời bỏ họ? Câu trả lời không quan trọng lắm, điều thiết yếu là họ khao khát được dẫn vào trong tương quan với Cha, mà chính tương quan đó tạo nên cái nền tảng cho hữu thể của Chúa Giêsu. Vả lại lời xin đó của các môn đệ liên quan với chính ước muốn của Chúa Giêsu: Người đã làm người để chia sẻ với chúng ta kinh nghiệm duy nhất về Cha mà Người đã có trong cõi đời đời. Kinh nghiệm đó được tóm lại trong một từ duy nhất: Abba! Cha ơi!, một từ được lập đi lập lại mãi, được thì thầm trong thinh lặng của con tim cho đến khi nó đặt chúng ta vào trong Cha hay dưới cái nhìn của Cha.
Luôn sống để cầu thay nguyện giúp…
Nếu Chúa Ki-tô đã xin chúng ta cầu nguyện luôn, không bao giờ mệt mỏi, không bao giờ nản chí, bởi chính Người đã cầu nguyện không ngừng. Thánh Lu-ca nói “Khi Người cầu nguyện xong…” . Xét cho cùng Chúa Giêsu không bao giờ kết thúc cầu nguyện, vì hôm nay Người vẫn tiếp tục cầu bầu cho chúng ta trong vinh quang. Lời cầu nguyện khả giác của Người có thể ngưng lại trước con mắt các môn đệ, nhưng trước mắt Cha Ngườøi chuyện đó luôn được theo đuổi trong những nơi thâm sâu của hữu thể Người. Chính vì lý do đó mà Người ám chỉ đến những người được chọn, những người kêu lên cùng Thiên Chúa ngày đêm.
Người ta muốn biết đâu là nội dung lời cầu nguyện của Chúa Giêsu, giống như các tập sinh trẻ của Phan-xi-cô, lén núp trong những vách núi đá Alverne để lắng nghe vài tiếng kinh nguyện của ngài, nhưng họ vô cùng thất vọng vì họ chỉ nghe được một tiếng kêu duy nhất lập đi lập lại suốt nhiều giờ: “Chúa ơi! Chúa ơi! Chúa ơi!”. Cũng thế chúng ta luôn ở nơi ngưỡng cửa mầu nhiệm cầu nguyện của Chúa Ki-tô với Cha Người, bởi vì đó là một tương quan ngôi vị, và tương quan này là duy nhất.
Người ta chỉ có thể lấy lại từng lời và đọc thong thả trong thinh lặng của tâm hồn, những lời nguyện của Chúa Giêsu trong Tin Mừng, cũng như những lời cầu xin trong kinh Lạy Cha. Với cách thức này, chúng ta tái tạo lại chúng, để như thể, chúng trở nên một phần máu thịt của chính chúng ta. Đôi khi ngọn lửa Thánh Linh xuyên qua những lời nguyện ấy và chúng ta không thể không ngừng lập đi lập lại, như thể chúng đã trở thành lời nguyện riêng của chúng ta.
Có một chuyện mà chúng ta ít biết là lời nguyện của Chúa Giêsu khi còn sống tại thế, có âm hưởng trên lời cầu nguyện của Người trong vinh quang trên trời. Một điều thú vị! Người ta không biết chính xác nội dung lời cầu nguyện của Người, nhưng người ta biết tại sao Người đã cầu nguyện rất nhiều và mãnh liệt. Cứ cầu nguyện và suy niệm mãi về lời cầu nguyện của Chúa Giêsu, đôi khi người ta tự hỏi tại sao Người đã cầu nguyện và cũng thế, tại sao ta phải cầu nguyện.
Đối với chúng ta, cầu nguyện là chuyện bình thường, vì chúng ta là những tạo vật, và theo đúng đạo đức của một con người, qùy gối xuống là điều cần thiết. Như Luther nói: “Một Ki-tô hữu phải cầu nguyện như anh chàng đóng giầy”. Điều đó phát xuất từ nơi mình, bởi vì con người được Thiên Chúa tạo dựng, nó lãnh nhận mọi sự từ Người. Vì vậy, con người cần xin tất cả ở nơi Cha nguồn ánh sáng, mà từ đó phát xuất mọi ân huệ hoàn hảo. Cha sở họ Ars nói: “Con người là một kẻ nghèo khó, cần xin mọi sự ở nơi Thiên Chúa”. Và cũng vì vậy mà nó cần trả lại cho Người tất cả trong hành vi tạ ơn và ca ngợi. Còn việc thờ lạy, thì đã được ghi khắc vào trong chính hữu thể thụ tạo chúng ta rồi. Chúng ta thờ lạy Thiên Chúa bởi vì Người là Thiên Chúa và chúng ta được dựng nên là để thờ lạy, ca ngợi và phục vụ Người, và qua đó không ngừng sống với Người (thánh Ignace cũng nói gần như vậy).
Nhưng người ta có thể tự hỏi tại sao Chúa Ki-tô, Ngôi Lời Thiên Chúa, Ngôi Hai trong Ba Ngôi Chí Thánh, lại phải thờ lạy và cầu nguyện, bởi vì Người ngang hàng với Cha Ngài và có thể tự ban cho chính mình điều mà Người cần. Suy nghĩ về chuyện đó là điều rất quan trọng bởi vì bằng cách đo lường cái khoảng cách vô tận tách biệt chúng ta với Người, chúng ta có đủ lý do mạnh mẽ hơn để hiểu tại sao cầu nguyện đối với chúng ta là một nhu cầu sống còn và một điều cần thiết. Đó là vấn đề sinh tử. Thiếu oxy người ta sẽ chết. Trong ý nghĩa đó, cầu nguyện thực sự là sự sống của cuộc đời chúng ta, và chúng ta được tạo dựng để cầu nguyện giống như cá được dựng nên để bơi lội. Chúng ta thường nghĩ là Chúa Ki-tô đã cầu nguyện để diễn tả tình yêu của Người đối với Cha, để ca ngợi và chúc tụng Cha. Và đúng, một lời cầu nguyện như thế thường đã trào lên trên môi miệng Người: “Lạy Cha, con chúc tụng Cha, vì Cha đã giấu điều đó với người không ngoan; …con ca ngợi Cha… con tạ ơn Cha, vì Cha đã nhậm lời con, con biết rõ Cha luôn nhậm lời con! ”. Nhưng lời cầu nguyện như thế phát ra từ chính mình Người, và hết sức tự nhiên, nếu có thể nói được như thế. Còn có một lời nguyện khác được thốt lên từ vực thẳm của cảnh khốn cùng và âu lo. Đó là lời cầu nguyện của cơn hấp hối mà các thánh sử Tin Mừng đã nói với chúng ta rằng Người đã phải kêu lên với Cha ba lần. Chính vì vậy mà chúng ta có được lý do tối hậu về sự cầu nguyện của Chúa Giêsu: Người đã cầu nguyện, khẩn nài vì sự yếu đuối của bản tính xác thịt của Người. Rồi đây khi Người ra lệnh cho các Tông Đồ phải cầu nguyện, thì Người sẽ nói với họ cùng một điều và sẽ giải thích cho họ lý do tại sao họ phải cầu nguyện: “Anh em hãy coi chừng và cầu nguyện luôn kẻo sa vào quyền lực của cám dỗ, bởi vì tinh thần thì lanh lẹ mà xác thịt thì yếu đuối.”
Chúa Giêsu, khi mặc lấy xác phàm giống như chúng ta, tự nhiên Người có kinh nghiệm về tính mong manh và yếu đuối của xác thịt, và đã trải qua những nỗi chán chường và khốn quẫn. Chính Người đã có kinh nghiệm buồn phiền đến chết được, và kêu lên lời cầu nguyện từ đáy sâu của vực thẳm đó. Người ta nói rằng có vài người, cả nam lẫn nữ (Adrienne von Speyr), đã kinh nghiệm về lời cầu nguyện của Đức Kitô, của Mẹ Maria và của các thánh. Tôi tưởng rằng chính từ kinh nghiệm đó mà ta phải hiểu, điều mà Đức Kitô chia sẻ không phải là Người kể cho họ những lời nói hay những tâm tình Người diễn tả với Cha, nhưng là những kinh nghiệm về sự khốn quẫn, chán chường và tiếng kêu cứu trong lời cầu nguyện của Người. Trong mọi trường hợp, chính bằng cách ấy mà tôi cảm nhận được tiếng kêu đó một cách mạnh mẽ. Vào những lúc mà tiếng kêu xin mãnh liệt nổi lên, người ta tự nhủ: chính như thế mà Chúa Giêsu đã cầu nguyện ở Giêtsêmani, ngay cả khi người ta ở vào thời qúa xa xôi với tiếng kêu của Người.
Tôi cũng tin rằng một lời cầu nguyện như thế không có một nội dung nào về từ ngữ, về lời nói và ngay cả về tư tưởng, đó chính là một tiếng kêu dài trong thinh lặng vọng lên từ cảnh khốn cùng của chúng ta, giống như tiếng kêu của Chúa Ki-tô. Khi Chúa Giêsu ban cho ai ơn cầu nguyện như thế, thì Người cũng thông ban cho họ điều tốt nhất, và vẫn xẩy ra như thế dù đôi khi người ta không ý thức. Đó là một trong những lúc gắn bó tha thiết và yêu mến Người nhất. Người không liên kết với các bạn bằng tình cảm hay cảm tính, nhưng bằng hơi thở sống động từ con người của Người, tức là hơi thở Thần Khí liên kết Người với Cha. Cũng như thế, Chúa Giêsu để cho con người của Người được chia sẻ cái đà sống và cái hôn yêu thương của mình đối với Cha. Tình yêu tinh tuyền là sự trao đổi hơi thở sống động trong Cha. Vào những lúc đó, con người không luôn luôn ý thức về chuyện ấy, bởi vì nó hoàn toàn ở trong tiếng kêu đó, và không có thì giờ để phân tích cái gì đã xảy ra trong nó. Về sau, người đó ý thức được rằng trong đó mình đã sống sự kết hợp yêu thương thực sự với Chúa Ki-tô. Ai đãù kinh nghiệm tiếng kêu đó, thì không bao giờ quên được nữa, vì biết rằng nếu Thiên Chúa để cho mình sống là để tiếng kêu đó của Chúa Giêsu trên thập giá còn vang vọng mãi trên mặt đất này. Sống là cầu nguyện như thế. Vì biết mình yếu đuối nên không thể ở mãi trong tình trạng cầu nguyện. Nhưng sự yếu đuối cũng có thể là một mũi nhọn thúc đẩy anh ta kêu xin. Nhất là khi khó mà bỏ được những yếu đuối của xác thịt của mình, rồi sinh ra kiêu ngạo, là mối tội đầu, một trở ngại thật cho tiếng kêu van. Đừng bao giờ ngừng tiếng kêu van (trừ phi Thiên Chúa bảo ngừng). Bằng lòng với số phận thụ tạo nghèo nàn, mang trong mình xác thịt và máu huyết đang kêu lên cùng Thiên Chúa. Tắt một lời, suốt cuộc đời ta luôn là một con người nghèo, một mảnh áo tả tơi, như ai đó đã nói với tôi.
Để hiểu điều đó, cần suy nghĩ và cầu nguyện theo thư gởi tín hữu Do Thái, nói về lời cầu nguyện của Chúa Ki-tô lúc sống tại thế, gợi lên lời cầu nguyện của Chúa Giêsu ở vườn Giếtsêmani. Vì đã đề cập đến yếu tố không gian và thời gian-khi còn ở trong thân xác- người ta có thể nghĩ rằng suốt cuộc đời của Người, Đức Kitô đã cầu nguyện theo cách đó. Lời khẩn nài và kêu xin ấy là nền tảng cho lời cầu nguyện của Người. Bản văn càng hay hơn nữa khi tiếng “trong lúc” được dùng nhiều lần trong cùng một lá thư, nghĩa là trong vinh quang Chúa luôn cầu bầu. Chúng ta trở lại phần thứ nhất:
“Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giêsu đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết. Người đã được nhậm lời, vì có lóng tôn kính. Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục; và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người, vì Người đã được Thiên Chúa tôn xưng là Thượng Tế theo phẩm trật Men- ki-xê-đê ” (Dt 5,7-10).
Âm điệu của lời nguyện này là âm điệu của nhân tính Đức Ki-tô. Để đại diện cho nhân loại, Người cũng là một thành phần để đồng cảm với cảnh khốn cùng và chia sẻ với họ: “Người có khả năng cảm thông với những kẻ ngu muội và những người lầm lạc, bởi vì chính Người cũng đầy yếu đuối” (Dt 5,2). Nhân tính xác thịt đã được thấy rõ trong suốt cuộc đời tại thế của Chúa Giê-su, nhất là qua cơn hấp hối và cái chết. Chính vì thế mà lời cầu nguyện thống thiết với nước mắt, đã ôm gọn lấy cuộc đời Người, từ tiếng kêu đầu tiên khi mở mắt chào đời: này con xin đến để làm theo ý Cha, cho đến tiếng kêu im lặng trên thập giá, phó thác linh hồn trong tay Cha. Lời cầu nguyện của Chúa Ki-tô lúc hấp hối được thưa lên từ sự suy phục trọn vẹn thánh ý Cha. Người đã được lắng nghe và nhậm lời. Trong ý nghĩa đó, lời cầu nguyện của Người thực sự là lời cầu nguyện của chúng ta, và khi chúng ta kêu lên cùng Cha với lời thống thiết van nài, thì Cha thấy khuôn mặt Con của Người trong chúng ta với cùng một tiếng kêu và cùng một ánh mắt.
Giờ đây Chúa Giê-su đang ở trong vinh quang bên hữu Cha. Nhưng Người có còn tiếp tục cầu nguyện cho chúng ta như thế không? Phải trả lời một cách xác quyết: “có”. Toàn bộ Tân Ước cho chúng ta biết: hoạt động duy nhất của Chúa trong vinh quang là cầu bầu, ngoại trừ ngày phán xét chung thời sau hết, là lúc mà chính Người sẽ xét xử. Và việc cầu bầu đó có hiệu quả cao gấp bội, vì từ nay Đức Giê-su được tôn lên trong vinh quang, được đặt làm Thầy và làm Chúa của người sống cũng như kẻ chết. Cuộc vượt qua của Người trong vâng phục với cuộc khổ nạn vinh quang đã mang lại cho Người mọi quyền năng bên cạnh Chúa Cha, Đấng đã thực sự đặt tất cả trong tay Con mình. Bản văn chính yếu ởû đây là thư gởi tín hữu Do-thái. Qua cái chết vinh quang, Đức Giê-su đi vào đời sống vĩnh cửu và Người mang phẩm chức Thượng Tế muôn đời: “do đó Người có thể đem ơn cứu độ vĩnh viễn cho những ai nhờ Người mà tiến đến cùng Thiên Chúa …” (Dt. 7,25).
Cần lưu ý, Đức Giê-su hằng sống, theo một thành ngữ thường thấy trong sách Công Vụ, tương đương với câu “Đức Giê-su đã sống lại”. Người hằng sống để cầu bầu. Từ đây, trong vinh quang trên trời Người không ngừng cầu bầu cho mọi người ở mọi thời đại và mọi thế hệ. Khi chúng ta nói con người sống là để cầu nguyện, thì chỉ cần ngắm nhìn kiểu mẫu của mình là Con Người Mới, con người liên lỉ cầu nguyện. Giới hạn trong không gian và thời gian, nên chúng ta khó có thể nghĩ rằng Đức Ki-tô luôn chuyển cầu cho nhân loại. Phục Sinh, Đức Kitô vẫn mang thân xác, Người vào trong vĩnh cửu với lời cầu nguyện không bị giới hạn bởi không gian, trở thành vĩnh cửu như chính bản thân Người vậy. Lời cầu nguyện của Người là một khoảng vĩnh cửu. Ngày nay gắn bó với Đức Ki-tô phục sinh tức là gắn bó với Người trong lời cầu nguyện trước mặt Cha Ngài. Có thể nói đó là sứ vụ duy nhất của Người ! Đã đến lúc chúng ta tự hỏi làm sao lời cầu nguyện của Đức Ki-tô trong vinh quang còn hiện diện trên mặt đất này từ khi Người lên trời.
Lời cầu nguyện của Chúa Thánh Thần
Bao lâu Đức Ki-tô còn ở trên trái đất, lời cầu nguyện luôn ở trong Người. Khi nối kết nhân loại với Ba Ngôi, lời cầu nguyện đã nối trời với đất. Từ ngày lên trời, một giai đoạn mới đã bắt đầu. Mười ngày mà các Tông Đồ hợp nhau cầu nguyện cùng với Đức Trinh Nữ Maria vẫn còn tiếp diễn: “Tất cả các ông đều đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với bà Maria thân mẫu Đức Giê-su, và với anh em của Đức Giêsu” (Cv 1,14). Chính Đức Maria, Mẹ của Chúa, đảm bảo cho sự hiện diện và sự gắn bó chặt chẽ của lời cầu nguyện của các môn đệ. Chúng ta cần trở lại với lời cầu nguyện của Mẹ Maria sau Phục Sinh, chính lúc ấy Mẹ nhớ lại trong tâm hồn mình những biến cố trong đời sống của con mình và chuyển thành lời cầu nguyện. Chương sau đây sẽ dành để bàn về Mẹ, Đấng thực sự là mô phạm và là kiểu mẫu cho những ai được kêu gọi để đêm ngày kêu van lên cùng Thiên Chúa. Tắt một lời, Mẹ xuất hiện như một người mẹ của sự cầu nguyện liên tục. Và những ai ở trong Giáo Hội được kêu gọi với tư cách cá nhân, để sống lời cầu nguyện này thì sẽ luôn đưa mắt dõi theo Mẹ và Đức Ki-tô, Đấng đã chọn Mẹ làm mẹ các môn đệ.
Trong nhà tiệc ly, Mẹ cầu nguyện trong sự chờ đợi sức mạnh từ trên xuống đã được Đức Ki-tô hứa đổ xuống trên các Tông Đồ. Chắc chắn cùng với các môn đệ, Mẹ nhớ lại những lời sau bữa tiệc ly, nhất là những lời liên quan đến cầu nguyện. Sau khi chứng kiến Đức Ki-tô lên cùng Cha, Mẹ không thể quên những lời của Người; cùng với các môn đệ, Mẹ luôn nhìn thấy “Giê-su” đang cầu nguyện suốt thời gian tại thế, và Mẹ biết –chính Người đã xác quyết điều đó – rằng ở trên cao, Người sẽ xin Cha phái Thần Khí xuống trên các Tông Đồ. Mẹ cũng biết rằng Thần Khí không ở với các môn đệ theo vẻ bên ngoài nhưng ở trong họ: “Thầy sẽ xin Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Đó là Thần Khí sự thật, Đấng mà thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy Người cũng chẳng nhận biết Người. Còn anh em biết Người, vì Người luôn ở giữa anh em và trong anh em” (Ga 14,16-17).
Lấy lại những lời của Chúa, người ta có thể tự hỏi, cũng như đối với Chúa Ki-tô, đâu là nền tảng của lời cầu nguyện này; tôi muốn nói tới một điểm chủ chốt, đó là sự kiện mang lại âm điệu cho lời cầu nguyện của Người. Có một từ trong sách Công Vụ Tông Đồ khả dĩ đem lại phần nào cho câu trả lời. Cái từ đó nói rằng họ siêng năng cầu nguyện; “siêng năng” một tính từ chỉ tính liên tục, sự kéo dài, tắt một lời là sự kiên trì. Người ta có thể dễ dàng nghĩ rằng lời cầu nguyện của Mẹ Maria ở nhà tiệc ly phải giống với lời cầu nguyện của Chúa Giê-su lúc hấp hối là, không ngừng thì thầm danh của Cha: Abba, Cha ơi! Lời cầu nguyện thật đơn giản, được thực hiện do việc lập đi lập lại không mệt mỏi; sự lập đi lập lại đó đào sâu con tim và làm trào dâng lời cầu xin của Chúa Thánh Thần, như thể một mạch nước chảy ngầm. Đó là lời cầu nguyện đã được thống nhất, đổ về nguồn trong tiếng nài van hơn là trong những lời hoa mỹ. Đó là lời cầu nguyện của người nghèo, của người đau ốm và của người tội lỗi trong Tin Mừng, nó được tóm lại trong một tiếng kêu với Đấng Cứu Độ: Lạy Chúa Giê-su, xin thương xót con.
Nếu lời cầu nguyện của Chúa Ki-tô trước tiên nói với Chúa Cha, thì lời cầu nguyện của Mẹ Maria và các Tông Đồ, trước tiên là thưa với Chúa Giê-su, Chúa của vinh quang. Và đối tượng của lời cầu nguyện này là chính lời hứa của Chúa Giê-su: phái Thần Khí đến với họ. Ta có thể nói rằng chính Chúa Giê-su đã truyền cho họ phải cầu nguyện theo cách đó: “Đức Giêsu truyền cho các ông không được rời khỏi Giêrusalem, nhưng phải ở lại mà đợi chờ điều Chúa Cha đã hứa, điều mà anh em đã nghe Thầy nói tới, đó là ông Gio-an thì làm phép rửa bằng nước, còn anh em trong ít ngày nữa sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần” (Cv 1,4-5). Cùng với Mẹ Maria, các Tông Đồ không xin với Chúa Giê-su điều gì khác ngoài việc xin sai Thần Khí đến, vì Người đã hứa cầu nguyện theo ý tưởng đó (Ga 14,16). Trong bối cảnh đó, Chúa Giê-su đã nói nhiều về việc cầu nguyện nhân danh Người: Tất cả những gì anh em xin cùng Cha nhân danh Thầy thì Người sẽ ban cho anh em. Như vậy lời cầu nguyện của họ có thể tóm lại trong một lời duy nhất: “Lạy Chúa Giê-su, xin phái Thần Khí của Ngài đến với chúng con”.
Như đã đề cập đến trên kia, thật rất hay khi nhận ra điều này là, trong lời cầu nguyện của mình, Chúa Giê-su luôn nói với Cha, nhưng các môn đệ và các Tông Đồ thì lại quay về với Chúa Giê-su để kêu xin Người. Thí dụ như cuộc tử đạo của thánh Stêphanô, ngài thấy trời mở ra và Con Người đứng bên hữu Thiên Chúa. Lời cầu nguyện của thánh nhân khi ấy nói trực tiếp với Chúa Giê-su bằng chính những lời của Chúa Giê-su trong cuộc khổ nạn, khi mà Người trao Thần Khí của Người trong tay Cha, còn thánh Stêphanô lại phó tâm hồn mình cho Chúa Giê-su và cũng như Người, thánh nhân xin sự tha thứ cho những đao phủ. Khi người ta ném đá ngài, ngài đã kêu xin: “Lạy Chúa Giê-su, xin đón nhận linh hồn con”. Rồi ngài quỳ gối xuống và kêu lớn tiếng: “Lạy Chúa, xin đừng trách cứ họ về tội này”. Và đang khi nói lời đó, ngài đã an nghỉ (Cv 7,59-60).
Điều này thật đáng lưu ý đối với lời cầu nguyện của chúng ta. Khi chúng ta cầu nguyện cùng với Mẹ Maria, thì chính Chúa Ki-tô mà chúng ta phải đưa mắt hướng về. Chính Danh thánh của Người mà chúng ta phải cầu xin, “bởi vì dưới gầm trời này không có một danh nào khác được ban cho con người để nhờ đó mà chúng ta được cứu độ ” (Cv 14,12). Không có gì dễ dàng cho bằng việc kêu xin danh Chúa Giê-su, nhưng đồng thời không có gì khó khăn cho bằng việc kiên trì cầu nguyện không ngừng với Danh Thánh ấy. Chính trong ý nghĩa đó, khi Chúa Giê-su nói với những người được chọn để đêm ngày kêu lên với Thiên Chúa, thì Người nghĩ đến những người đang sống như mọi người, nhưng dâng hiến cuộc đời mình cho duy một việc kêu cầu danh Người, ngay cả khi lo chu toàn công việc được giao, họ cũng dành thời giờ cho việc cầu nguyện. Những con người như thế rất hiếm. Khó khăn không phải do cầu nguyện (vì không có gì đơn giản cho bằng việc kêu danh Chúa Giê-su), nhưng là do rất ít người tin vào ơn gọi này. Tuy nhiên, Chúa Giê-su rất cần những người như vậy, và niềm tin trên trái đất lệ thuộc vào lời cầu nguyện không ngừng của họ: “khi Con Người đến, liệu còn thấy niềm tin trên trái đất nữa không?”
Khi khát vọng và cầu nguyện tích tụ lại thì không thể nào mà Chúa Giêsu lại không chú ý đến. Đó là biến cố ngày lễ Ngũ Tuần ở Giêrusalem theo như sách Công Vụ Tông Đồ đã thuật lại. Từ lúc đó, có một cái gì đã thay đổi. Ta có thể nói rằng bộ mặt của trái đất đã bị đảo ngược: Thần Khí Chúa tràn đầy vũ trụ và làm thay đổi mặt địa cầu. Lời cầu nguyện của Chúa Giê-su vẫn hiện diện trong lòng thế giới cho đến ngày Người về trời. Rồi từ đấy, lời cầu nguyện của Chúa Thánh Thần sẽ tiếp tục hiện diện giữa lòng vũ trụ và trong lòng mỗi người tín hữu. Rất ít người Ki-tô hữu và ngay cả các Linh Mục, ý thức được điều này khi họ nói về sự cầu nguyện. Trước hết, họ chỉ thấy ở đó hoạt động của con người, ngay cả khi hoạt động đó được trợ giúp bởi Chúa Thánh Thần để tìm kiếm khuôn mặt của Chúa Giê-su và của Chúa Cha. Tuy nhiên, khi ấy không phải con người cầu nguyện, nhưng chính Thần Khí hiện diện trong lòng thế giới đang không ngừng cầu nguyện. Mỗi lần chúng ta bắt đầu cầu nguyện, chúng ta phải ý thức về việc cầu nguyện này của Chúa Thánh Thần, Đấng đang ở trong chúng ta. Người đi trước chúng ta và tiếp tục cầu nguyện, ngay cả khi chúng ta ngưng cầu nguyện. Dù muốn dù không, thì từ ngày lễ Ngũ Tuần hoặc ngay khi Thần Khí được Chúa Giê-su trút xuống từ trên thập giá vào chiều lễ Vượt Qua, lời cầu nguyện sẽ không ngừng lại nữa dù chỉ là một tích tắc trên mặt đất này, cho đến ngày Chúa Ki-tô quang lâm. Chúng ta đang sống trong một vũ trụ được đắm chìm và ngập tràn bởi lời cầu nguyện.
Chắc chắn nhiều người không ý thức được sự hiện diện của lời cầu nguyện Thần Khí ở trong lòng thế giới. Ngay nhiều Ki-tô hữu cũng không ý thức được sự hiện diện này của lời cầu nguyện trong lòng của họ: dù họ ngủ, dù họ thức, dù họ ăn uống, nghỉ ngơi, thì lời cầu nguyện không ngừng lay động con tim họ. Nhất là lời cầu nguyện đó không lệ thuộc vào ý thức chúng ta. Từ đó phát sinh ra các linh phụ tỉnh thức (Pères neptiques). Các vị này nói rằng chúng ta là những người mê ngủ, không ý thức lời cầu nguyện đang ở trong chúng ta và rằng tất cả các hoạt động thiêng liêng cốt ở chỗ là ý thức về điều mà chúng ta đang mang trong mình. Từ đó nảy sinh việc tập luyện lời kinh Chúa Giê-su, nảy sinh những chuyện như tỉnh thức, ăn chay, hoán cải, mà không nói về sự khiêm tốn, hiền lành, từ bỏ và sự tha thứ đối với những xúc phạm, là những thứ giữ chúng ta lại trong tình trạng canh chừng và làm thoát ra lời cầu nguyện đang có đó trong chúng ta. Mỗi một lời cầu nguyện mà chúng ta cất lên có mục đích là làm cho chúng ta ý thức hơn về lời cầu nguyện liên tục này, nó không ngừng tuôn chảy trong lòng chúng ta, cho đến ngày mà lời cầu nguyện ấy sẽ xâm chiếm vùng ý thức của chúng ta. Nhưng muốn điều đó chưa đủ, cần phải có rất nhiều thời gian để trở thành một trong những con người cầu nguyện này, những con người mà từ bên trong, họ đã bị chiếm đoạt không phải bởi cái gì khác ngoài lời cầu nguyện. Khi Thiên Chúa đặt ước muốn này vào trong tâm khảm con người, đó là dấu hiệu Người muốn ban ơn đó cho nó, vì “Thiên Chúa không làm cho ai khao khát điều gì mà lại không muốn ban nó cho họ” (thánh Gio-an Thánh Giá). Nhưng Người cũng đòi sự cộng tác của chúng ta, vì nếu ơn huệ này là nhưng không, thì nó không mang tính áp đặt. Thiên Chúa chờ đợi chúng ta mỗi ngày bắt đầu bằng việc tìm kiếm viên ngọc quý. Thường thường, người ta thấy ơn huệ này sinh hoa kết quả vào khoảng giữa tuổi năm mươi hoặc sáu mươi. Nhưng khi đó người nhận ra nó, không còn ý thức về tất cả những gì anh xin nữa, bởi lẽ anh đã chìm vào trong lời cầu nguyện không ngừng của Thần Khí. Tình trạng đó giống đứa bé nằm trong bụng mẹ, nó sống trong bà và nhờ bà, nhưng nó không thấy khuôn mặt của bà. Như thế, người cầu nguyện không ngừng thì hoàn toàn nằm trong lòng Thiên Chúa và nhất là nó bị che khuất dưới con mắt của người khác và của chính mình.
Vừa rồi chúng tôi chỉ mới xác định sự hiện diện của lời cầu nguyện liên tục trong lòng mỗi người tín hữu và trong vũ trụ. Chắc chắn với sự giúp đỡ của thánh Phao-lô, chúng ta cũng cần biết con tim cầu nguyện “thi hành chức năng” của nó bằng cách nào. Nhưng chúng tôi đã làm điều đó trong những bài viết trước của rồi, ở đây, chúng tôi chỉ muốn lập lại thôi. Đơn giản là chúng tôi nói rằng Chúa Thánh Thần kết nối với tâm thần của chúng ta để cầu nguyện trong chúng ta và xác quyết rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa. Chính Người thăm dò những nơi sâu thẳm của Thiên Chúa và những nơi sâu thẳm của riêng từng người chúng ta. Người làm cho chúng ta ý thức về những ân huệ mà Thiên Chúa đã thực hiện cho chúng ta. Nhất là Người làm cho chúng ta ý thức rằng chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải trong khi kêu cầu từ bên ngoài, thì Người làm vọt trào lên trong chúng ta những tiếng kêu rên xiết khôn tả. Chính khi đó mà con tim cầu nguyện của chúng ta cùng thức tỉnh với chính lời cầu nguyện của Chúa Thánh Thần: “Và Thiên Chúa, Đấng thấu suốt tâm can, Thần Khí muốn nói gì, vì Thần Khí cầu thay nguyện giúp cho dân thánh theo đúng ý Thiên Chúa” (Rm 8,27). Tất cả thuộc về chúng ta, vì lời cầu nguyện của Chúa Thánh Thần đi vào trong những nơi sâu thẳm của riêng từng người. Lời cầu nguyện này trước tiên là lời cầu nguyện của Chúa Thánh Thần trong chúng ta, lời cầu duy nhất có thể làm hài lòng Thiên Chúa.
2.MARIA SUY ĐI NGHĨ LẠI TRONG LÒNG
Đối với tất cả những tín hữu cảm thấy được kêu gọi sống đời cầu nguyện không ngừng và được chọn để đêm ngày kêu lên cùng Thiên Chúa, thì họ có Đức Nữ Đồng Trinh Maria ở bên cạnh, nhất là khi họ khám phá ra lời cầu nguyện khôn dò của Chúa Giê-su. Đồng thời, họ cũng kinh nghiệm được rằng Mẹ Đồng Trinh là một mầu nhiệm của sự ưu ái. Người ta không thể tiến lại gần Mẹ nếu không được Chúa Giê-su lôi kéo và nếu không đón nhận ơn sủng của Chúa Thánh Thần. Không phải tất cả mọi người đều có được một tình yêu hoàn toàn của Mẹ Maria, và cũng không phải qua Mẹ tất cả đều nẩy sinh ra cầu nguyện trong suốt đời sống của chúng ta. Đó là ân huệ mà Chúa Thánh Thần khơi lên. Thánh Grignion de Montfort nói rằng trái tim của Đức Maria là phòng cầu nguyện, trong đó chúng ta thực hành tất cả lời cầu nguyện của chúng ta. Chúng ta không có khả năng nghiệm ra sự hiện diện liên tục của Mẹ Maria ở bên cạnh chúng ta và ngay trong chúng ta. Đó hoàn toàn là ân huệ của Chúa Thánh Thần. Thánh Mutien-Marie de Malonne nói rằng ngài đã xin Mẹ Maria đồng hành với ngài trong mọi việc ngài làm và từ khi đó ngài cảm thấy sự hiện diện của Mẹ bên cạnh ngài. Người ta nhận thấy điều đó nơi một vài vị thánh đã là những người bạn cao cả của Mẹ Đồng Trinh.
Nhưng phải hết sức cẩn thận khi quá vật chất hoá sự hiện diện này hoặc tưởng tượng ra nó ở một bình diện cảm giác. Mẹ Đồng Trinh hiện diện với ai nhiều, thì lại ít làm cho người đó cảm nghiệm được sự hiện diện này. Đó là một trong những luật căn bản của đời sống Mẹ ngay cả khi chúng ta sử dụng những từ như: cảm nghiệm, kinh nghiệm hoặc cảm giác được sự hiện diện của Mẹ. Như thế, luật này có thể được hiểu là, Đức Maria càng đi vào trong đời sống của một tín hữu nào đó và chiếm một chỗ quan trọng trong đời sống cầu nguyện và hoạt động cầu nguyện của người đó bao nhiêu, thì sự hiện diện của Mẹ càng trở nên con số “zêrô” đối với kinh nghiệm cảm giác bấy nhiêu. Sẽ có ngày những người có kinh nghiệm kia tự hỏi đâu là trường hợp chung cho nhiều người trong họ, ngay cả khi họ rất yêu mến Đức Trinh Nữ Đồng Trinh, nhất là khi họ cảm thấy mãnh liệt sự hiện diện của Mẹ lúc bắt đầu cuộc đàm thoại thiêng liêng.
Lý do của sự vắng mặt có tính cảm giác này nằm ở trong chính bản tính của Đức Maria và hành động của Mẹ. Trước tiên là Mẹ muốn xoá mình đi để nhường lại chỗ cho Con của Mẹ. Vì thế, những ai đã quyết định tận hiến cho Mẹ Maria trong đời sống cầu nguyện thì họ không có gì phải sợ khi phải nhường một điều gì đó cho Chúa bởi vì cái độc đáo nơi Mẹ Maria là tự xoá mình đi để cho Thiên Chúa là Thiên Chúa nơi chúng ta. Thánh Grignion de Montfort nói: “Khi bạn gọi: “Mẹ Maria”, thì Mẹ sẽ trả lời: “Chúa đây”. Mẹ chỉ hiện diện ở đàng sau thôi.
Vấn đề được đặt ra ở đây là: sự hiện diện mạnh mẽ này không thể cảm nhận bằng giác quan, nên cách này hay cách khác họ cần phải có một ý thức nào đó về sự hiện diện này, nếu không, lời cầu nguyện của Chúa Thánh Thần đó chỉ là cái nhìn thuộc trí tuệ hoặc từ ngữ mà thôi. Quả thật, tôi tin rằng khi cảm nhận ở một mức độ khác với mức độ liên quan đến cảm giác, thì cảm nhận sẽ rõ ràng hơn, bởi lẽ nó đụng tới hành động cầu nguyện của chúng ta. Khi Mẹ Maria ở với người tín hữu nào, thì người ấy cầu nguyện với Mẹ càng lúc càng nhiều hơn, hoặc nghiệm thấy rằng Mẹ luôn cầu nguyện cho mình. Cũng như đối với sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong chúng ta, nhất là khi người ta cảm nghiệm được Người đang cầu nguyện bằng những tiếng rên siết khôn tả; cũng thế đối với Đức Maria, Đấng luôn gắn bó với Chúa Thánh Thần, như thánh Grignion de Montfort nói: “Khi Chúa Thánh Thần thấy Mẹ Maria trong một tâm hồn nào đó thì Ngài chạy và bay tới đó.” Chúng ta cảm nghiệm được tình yêu và sự gắn bó của chúng ta đối với Mẹ Maria khi chúng ta cầu xin với Mẹ càng ngày càng nhiều hơn. Nhưng lời cầu nguyện này không có gì liên quan tới những biểu lộ mang tính cảm giác cả. Sở dĩ ta dám nói với Mẹ Maria rằng ta yêu Mẹ bởi vì ta rất ít cảm nhận được tình yêu của Mẹ. Nhưng như những đứa trẻ ra dấu cho mẹ chúng, để gọi bà đến giúp chúng thế nào, thì ta cũng thốt lên những tiếng gọi, được lập đi lập lại trong khi lần hạt. Như thế ta sẽ nguyện ngắm với Mẹ Maria trong khi lần hạt. Nhưng chúng ta nên nói một chút rằng lần hạt là phương tiện ngắn gọn để nối kết chúng ta với Mẹ Maria và gọi Mẹ đến cứu giúp chúng ta như Mẹ đã làm cùng một cách như thế ở nhà Tiệc Ly khi Mẹ kêu xin Chúa Giê-su phái Thánh Thần xuống. Nếu nhìn từ phía bên ngoài, lần hạt có vẻ ngớ ngẩn và hoàn toàn máy móc. Thường có như thế khi lần hạt, cho dù với ý muốn tốt lành nhất, nhưng đồng thời đó là kinh nguyện của người nghèo và những kẻ bé mọn. Và ta biết rằng Đức Trinh Nữ rất hài lòng về việc lần hạt, bởi lẽ khi ấy người ta sử dụng chính những lời của Thiên Chúa để chào Mẹ và tuyên xưng sự thánh thiện của Mẹ. Thường thường ta không nghĩ đến điều ta đọc, vì những biến động của tinh thần làm cho chia trí, nhưng người ta cảm thấy hạnh phúc khi được ở bên Đức Trinh Nữ nửa giờ, giống như khi ta mang niềm vui đến cho một người bệnh nào đó mà ta thăm viếng. Còn có cái gì hơn nữa. Sau mỗi chuỗi năm mươi kinh, và đúng hơn, sau một tràng một trăm năm mươi kinh, người ta cảm thấy không còn như trước nữa, có cái gì đó đã thay đổi trong tâm hồn. Ta trở nên nghèo nàn hơn, nhỏ bé hơn, cạn kiệt hơn và như vậy có chút gì đó gần với sự qui hàng trước tình yêu của Thiên Chúa đang chiếm dần chỗ trong tâm hồn chúng ta.
Lời cầu nguyện của Đức Maria
Tôi thường tự hỏi Đức Maria đã không cầu nguyện bằng cách đó sao. Chắc hẳn có một sự khác nhau căn bản giữa việc cầu nguyện của Mẹ trong thời kỳ Chúa Giê-su sống tại thế và từ khi Chúa sống lại. Chúng ta gợi lên đời sống của Đức Maria, chúng ta thường không quan tâm đủ tới biến cố làm đảo lộn đó: mầu nhiệm Sống Lại. Bossuet nói rằng sau biến cố Phục Sinh, đời sống Đức Maria là một phép lạ thường hằng, bởi lẽ nó mang lấy một khối vinh quang không thể chịu nổi đối với bản tính nhân loại yếu hèn và ngài xác quyết : việc Mẹ lên trời không phải là một phép lạ, nhưng là sự kết thúc của một phép lạ.
Các biến cố trong cuộc đời của Chúa Giêsu đã mang tất cả trọng lượng và cường độ của chúng sau khi Ngài sống lại. Chính lúc đó mà chúng trở thành, trước là đối tượng của lời loan báo, và sau đó mới được viết ra bởi các tác giả Tin Mừng. Cũng cần phải nói như thế đối với tất cả các biến cố trong đời sống của Mẹ Maria, điều mà ta gọi là Tin Mừng về thời thơ ấu: truyền tin, thăm viếng, việc Chúa Giê-su sinh ra và tất cả các biến cố trong đời sống ẩn dật, kể cả chuyện Mẹ dâng Chúa vào đền thánh. Điều đó không loại bỏ tính chân thật và lịch sử của các biến cố này, nhưng chúng thực sự đã trở nên đối tượng cho lời cầu nguyện lúc Mẹ Maria đã đón nhận Thần Khí Phục Sinh, đã đi vào trong sự hiểu biết thiêng liêng đối với các chặng đường trong cuộc đời của Chúa Giê-su. Mẹ đã phải ôn lại các biến cố ấy trong ký ức của tâm hồn, đưa chúng vào trong lời cầu nguyện, như chính những lời của thánh sử Lu-ca: “Mẹ Maria đã ghi nhớ tất cả những biến cố ấy và suy niệm trong lòng” (Lc 2,19.51). Người ta muốn nói rằng lời cầu nguyện của Mẹ Maria sau phục sinh đã là một sự suy gẫm lâu dài, mãnh liệt và sâu sắc về các biến cố trong đời sống của Con Mẹ qua những chặng đường của Người, đó là chính đối tượng cho việc cầu nguyện bằng kinh Mân Côi. Có khi tôi hài hước nghĩ rằng nền tảng cho lời cầu nguyện của Mẹ Maria được thiết lập do kinh Mân Côi. Phần thứ nhất của kinh Kính Mừng, Mẹ đã ghi nhớ những lời được thốt ra bởi thiên thần Gabriel, bà Elisabeth, các mục đồng, các nhà chiêm tinh, ông Simeon và bà Anna, và trong phần thứ hai, Mẹ cầu bầu cho Giáo Hội mới khai sinh để Chúa Giê-su còn gặp được lòng tin khi Ngài trở lại trên mặt đất này.
Ở Lộ Đức, thánh nữ Bernadette thấy Mẹ Maria cầu nguyện với kinh Mân Côi và đọc phần một: “kính mừng Maria…”
Trước phục sinh lời cầu nguyện của Mẹ Maria phải giống với lời cầu nguyện của Chúa Giê-su, Con Mẹ và của tất cả những người Do-Thái siêng năng đến hội đường và lên đền thờ Giêrusalem hàng năm. Dầu sao cũng cần phải ghi nhận rằng với bản tính nguyên thủy, Mẹ Maria đã cầu nguyện cách tự nhiên ngay cả khi Mẹ không ý thức chuyện đó, giống như tổ tiên chúng ta đã được đặt vào trong vườn địa đàng để canh tác, nghĩa là bằng cả cuộc sống của mình, họ phải làm một sự thờ phượng thiêng liêng và đó là ý nghĩa của từ “canh tác”. Họ có khả năng cầu nguyện luôn luôn, và khả năng đó họ có cách tự nhiên, điều mà chúng ta đã đánh mất do sự sa ngã của nguyên tổ. Cũng thế, Mẹ Maria đã cầu nguyện như Mẹ thở vậy, và toàn bộ đời sống của Mẹ là một sự thờ phượng đối với Thiên Chúa. Chắc hẳn Mẹ đã không ý thức chuyện đó, như Cassien nói về người đã đạt đến sự cầu nguyện không ngừng như sau: “Anh ta cầu nguyện luôn luôn, nhưng anh ta không còn ý thức rằng mình đang cầu nguyện”.
Đã có một sự xoay chuyển với biến cố Phục Sinh. Ít ra cũng có điều mà thánh Lu-ca cho chúng ta biết qua hai câu Kinh Thánh nói rõ về việc Đức Maria cầu nguyện. Và nếu thánh Lu-ca cho chúng ta hai chỗ để đối chiếu trong cùng những từ, thì chắc chắn vì những từ này mở đường cho ta đi vào sự suy ngắm của Đức Nữ Đồng Trinh. Đối với tôi, chúng luôn xuất hiện như là hai câu quan trọng nhất của Tin Mừng đề cập tới lời cầu nguyện của Đức Nữ Đồng Trinh.
* Câu thứ nhất: “Còn bà Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng” (Lc 2,19).
* Câu thứ hai: “Riêng Mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng” (Lc 2,51).
Có lẽ cần phải vẽ lại khung cảnh mà Mẹ Maria sống sau biến cố Phục Sinh. Chúng ta thấy ngay từ khi Chúa Giê-su lên trời Mẹ đã ở giữa cộng đoàn mười một Tông Đồ và các môn đệ bao xung quanh. Mẹ cũng ở giữa Giáo Hội và đảm bảo cho sự liên kết giữa các thành viên. Bởi vì Mẹ là mẹ của Chúa đã được đưa vào vinh quang, và vì tính cách gần gũi này mà Mẹ giữ một chỗ đặc biệt trong cộng đoàn Giáo Hội sơ khai. Mặt khác, trên thập giá Chúa Giê-su đã trao phó Mẹ cho một người bạn thân tín nhất, người đã đưa Mẹ về nhà mình. Thánh Gio-an cũng được xem như là người gần gũi với Chúa bởi vì ngài dựa vào lòng Chúa ở nhà Tiệc Ly và đã đón nhận những tâm tư sâu kín của Người.
Chính trong khung cảnh sốt sáng sơ khai đó mà phát sinh ra những bài tường thuật về việc truyền tin, việc sinh ra và lớn lên của Đấng Cứu Độ. Thánh Lu-ca cho chúng ta biết chuyện đó khi nói rằng Mẹ Maria giữ gìn tất cả những chuyện đó trong lòng, hiểu ngầm là cho tới khi những điều đó được thực hiện. Các nhà chú giải nói với chúng ta rằng hai câu Kinh Thánh trên là một cấu trúc mang tính khải huyền, nghĩa là nó gợi lên những biến cố chắc chắn đã xảy ra, nhưng người ta chỉ có thể hiểu được ý nghĩa tối hậu của nó sau khi Chúa được tôn vinh. Vào lúc mà các biến cố đó đã được loan báo và đã được thực hiện, thì Mẹ Maria không có ý thuật lại và hơn nữa không có ý viết ra, bởi lẽ mẹ chỉ là một người đàn bà đơn sơ, nghèo hèn, không có kiến thức bao nhiêu; chắc Mẹ biết đọc, nhưng không thể có khả năng viết ra. Hơn nữa việc đó sẽ chẳng có ý nghĩa gì cả bởi vì Chúa chưa được tôn vinh. Nếu người ta cho phép tôi làm sự so sánh sau đây, một sự so sánh không theo tiêu chuẩn nào, với biến cố của Chúa Ki-tô, thì ta thấy không ai có ý tưởng viết lại cuộc đời của Napoléon trong khi ông còn là con nít. Phải chờ cho đến khi ông đi vào trong lịch sử thì người ta mới quan tâm đến nguồn gốc, sự lớn lên và nền giáo dục của ông.
Cách nào đó, đấy cũng là điều đã xảy ra với Chúa Ki-tô. Ngay khi Người sống lại do quyền năng của Chúa Thánh Thần và được đưa vào trong vinh quang của Cha vào ngày Người lên trời, thì người ta mới bắt đầu trở về với những biến cố quá khứ và tìm lại trong các thời kỳ đầu tiên này, các bằng chứng gốc gác thần linh của Người. Vì thế Mẹ Maria đã có thể tường thuật lại biến cố Truyền Tin đã xẩy ra trong trật tự bình thường của các sự kiện, khi người ta biết được điều đã xảy đến với Chúa Ki-tô sau cái chết của Người. Nếu người ta tin vào quyền năng đã làm cho Chúa Giê-su sống lại từ trong kẻ chết, thì không còn khó khăn gì nữa để tin vào nguồn gốc thần linh của Chúa Giê-su, và nhất là tin vào sức mạnh của Chúa Thánh Thần trên đổ xuống Đức Nữ Đồng Trinh Maria và đã tạo trong lòng Mẹ thân hình Chúa Ki-tô. Nếu người ta tin vào sự sống lại của Chúa Giê-su, bởi lẽ Người là Con Thiên Chúa, thì cũng phải tin rằng Con- Người-Thiên -Chúa này đã được sinh ra bởi một người nữ. Và do đó mà xuất hiện các bài tường thuật về cuộc đời thơ ấu của Chúa Ki-tô .
Chắc chắn Gio-an và Lu-ca phải xin Đức Nữ Đồng Trinh kể về đứa trẻ mầu nhiệm mà sau này đã trở thành Chúa vinh quang. Chính vì vậy mà có hai câu của thánh Lu-ca về sự suy ngắm trong lòng của Mẹ Maria. Sau biến cố Phục Sinh, và nhất là ở biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống, Mẹ Maria đã phải giữ tất cả những kỷ niệm đó trong thinh lặng của tâm hồn. Ngày qua ngày, Mẹ đã sống trong sự nghiền ngẫm những kỷ niệm đó với tất cả ý nghĩa của chúng, dưới tác động của Chúa Thánh Thần và đó là đối tượng cho việc cầu nguyện của Mẹ, tất cả tập trung vào Đấng Cứu Độ. Chúa vinh quang đã trở nên trung tâm cho đời sống của Mẹ.
Lời của thiên thần Gabriel “Không có gì mà Thiên Chúa không làm được”, lúc ấy đã nhận được mặc khải trọn vẹn. Vào lúc mà Mẹ đón nhận lời nói đó khi truyền tin, Mẹ đã tin một cách tuyệt vời rằng, Thiên Chúa có thể cho Chúa Giê-su sinh ra từ thân xác đồng trinh của Mẹ, như Người đã có thể cho Gio-an Tẩy Giả sinh ra từ một người nữ son sẻ. Hôm nay Mẹ đã thấy điều đó được thực hiện tròn đầy trong sự sống lại của Chúa Giê-su. Thần Khí là sức mạnh toàn năng của Thiên Chúa. Đối với Người, không có gì là không có thể.
Lúc bấy giờ lời kêu xin của Mẹ Maria đã được tăng lên gấp bội. Trong những ngày cưu mang Chúa Giê-su, Mẹ cũng đã kêu xin rồi, bởi vì mọi sự đều có thể đối với Thiên Chúa; nhưng sau ngày phục sinh, chính Thần Khí chiếm đoạt lời kêu xin của Mẹ và mặc cho nó một cường độ và một sức mạnh có thể lật nhào đồi núi. Nói tóm lại, đó là lời kêu xin của Chúa Thánh Thần trong Mẹ. Chính vì vậy mà lời cầu nguyện của chúng ta với Mẹ Maria, phải luôn luôn là lời kêu van như mục đích tối hậu, bởi vì Đức Nữ Đồng Trinh là sức mạnh toàn năng đang kêu van.
Như thế trong lời cầu nguyện của mình, Mẹ Maria đã nhớ lại tất cả các biến cố về đời sống Chúa Giê-su như chúng ta suy ngắm các biến cố ấy khi chúng ta cầu nguyện bằng kinh Mân Côi. Chắc chắn, Mẹ đã giữ lại nhiều biến cố khác, nhưng điều thiết yếu, đó là Chúa Giê-su lớn lên trong lòng Mẹ, bằng lòng tin, tất cả giống như thánh Lu-ca xác định rằng Người đã lớn lên về tuổi tác, kích thước và sự khôn ngoan trước mặt Thiên Chúa và người ta. Thánh nữ Tê-rê-sa Hài Đồng Giê-su yêu mến cách đặc biệt mầu nhiệm Truyền Tin, bởi vì lúc đó Chúa Giê-su là người nhỏ nhất trong lòng Mẹ Maria.
Như vậy việc cầu nguyện bằng kinh Mân Côi được diễn tả trong sự suy ngắm của Mẹ Maria, và chúng ta hãy để cho Chúa Giêsu sinh ra, sống và lớn lên trong tâm hồn chúng ta nhờ vào lòng tin, cũng như chúng ta thông chia các đau khổ của Người khi chúng ta cầu nguyện với mầu nhiệm thương khó của Người. Cũng vậy, dưới tác động của Chúa Thánh Thần, chúng ta cầu nguyện với các mầu nhiệm mừng vui, và Chúa Giêsu cho chúng ta kinh nghiệm được sức mạnh của việc Người sống lại. Như thế những ai mỗi ngày cầu nguyện bằng kinh Mân Côi, thì tự đặt mình vào trong trường học cầu nguyện của Mẹ Maria và để cho mình sinh ra trong đời sống thần linh nhờ Chúa Kitô, Đấng đang sinh ra, đang đau khổ và đang sống lại trong họ. Như vậy họ được nên một với Chúa Giêsu bởi lời cầu nguyện của Người, mà chúng ta đã bàn đến ở chương trước.
Thuộc trọn vào lời cầu nguyện của Mẹ Maria
Những ai cảm thấy được kêu gọi hiến dâng trọn vẹn để cầu nguyện cho thế giới, để Con Người còn tìm thấy lòng tin khi trở lại trên trái đất này, thì họ phải được bao trùm hoàn toàn bằng lời cầu nguyện của Mẹ Maria, Đấng đã bắt đầu và kết thúc cuộc đời trong cầu nguyện. Nhất là họ không tìm cách biện hộ khi người ta nói lời cầu nguyện này chỉ là ảo tưởng hoặc cầu nguyện như thế không đủ. Đừng biện hộ, bởi lẽ ơn gọi của họ đến từ trên cao và chỉ mình Cha mới có thể quyết định về ơn gọi đó. Họ cũng không cần tìm cách cầu nguyện, hay bận tâm phải cầu nguyện bao nhiêu giờ. Cũng chẳng cần để ý tới việc cầu nguyện trong trí hay đọc thành lời. Điều đó sẽ được ban cho vào thời gian thích hợp. Họ chỉ cần dâng mình cho việc cầu nguyện, như con chó nhỏ nhảy xuống nước phải bơi để cứu mạng sống mình thôi. Nếu người ta hỏi tại sao họ cầu nguyện, cầu nguyện cho ai! Nếu đó là điều hữu ích cho cầu nguyện, hãy trả lời cách đơn sơ: “ Tôi cầu nguyện bởi vì Thiên Chúa là Thiên Chúa và Người xin tôi điều đó”. Đừng bao giờ tìm cách cầu nguyện sao cho hay. Làm như vậy, họ sẽ chẳng bao giờ cầu nguyện. Hãy cầu nguyện luôn, không bao giờ mệt mỏi, không bao giờ nản chí.
Tận hiến cho Mẹ Maria là làm sao? Thánh Louis Grignion de Montfort trả lời: “ Chúng ta phải đưa tất cả lời cầu nguyện của mình vào trong phòng cầu nguyện là tâm hồn của Mẹ Maria”. Nghĩa là khám phá ra căn phòng cầu nguyện đó và chúng ta ở trong tâm hồn Mẹ như Thánh Gioan đã đưa Mẹ về nhà mình sau ngày Phục sinh. Nói cách khác, chúng ta phải có kinh nghiệm về sự gần gũi với Mẹ Maria, về sự hiện diện của Mẹ bên cạnh chúng ta ( như chúng ta đã nói điều này khi bàn về Thầy Mutien- Marie ), về việc Mẹ biết chúng ta cách sâu sa và thân mật, đến nỗi chúng ta chẳng cần phải nói gì với Mẹ. Mẹ luôn sẵn sàng đón nhận những ước mơ nhỏ bé và lời cầu xin hết sức tầm thường của chúng ta. Phần chúng ta, cách đơn giản là cầu nguyện với Mẹ, kêu van Mẹ ngay khi chúng ta có thời giờ rảnh rỗi. Cùng với Mẹ, chúng ta sống Bí tích Thánh Thể, đọc thần vụ và nguyện ngắm dưới ánh mắt Mẹ. Chính trong kinh Mân Côi, mà chúng ta được hoàn toàn ngập chìm trong một loạt các Mầu nhiệm mà Thánh Thần gợi lên trong chúng ta. Khi ấy đừng kết thúc việc đọc kinh, nên thêm vào, chẳng hạn việc suy ngắm các biến cố về cuộc đời Chúa Giêsu trong tâm hồn Mẹ, hay lời cầu nguyện của Mẹ ở nơi nhà Tiệc Ly. Tôi thích cách đặc biệt lời sau đây của Chúa Giêsu nói với Thánh Gioan: “ Đây là Mẹ con”. Nhất là khi Chúa Thánh Thần cho chúng ta được hưởng nếm tình mẫu tử đích thực Mẹ. Chúa Giêsu còn tuyên bố Mẹ Người là người có phúc vì đã lắng nghe lời Chúa và đem ra thi hành. Tất cả những lời đó nuôi dưỡng lời cầu nguyện của chúng ta và làm cho chúng ta có thói quen đi theo Mẹ. Nhưng nền tảng của lời cầu nguyện của chúng ta, lời cầu nguyện mà chúng ta phải quay về như thể bị sức mạnh nào đó thu hút, đó là lời kinh Mân côi và nhất là phần thứ hai của kinh Kính Mừng: “ Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời , cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tử”.
Vài người thật có lý khi tự hỏi, cái gì cũng hoàn toàn bởi Mẹ Maria, thì còn đâu là phần của Thiên Chúa? Chúng ta thường khởi đầu cầu nguyện theo cách phân chia sau đây: Trước tiên là cầu nguyện với Chúa Thánh Thần để Người ban cho chúng ta ơn cầu nguyện, sau đó chúng ta quay sang Chúa Kitô, Đấng duy nhất trong Ba Ngôi cầu nguyện và dạy chúng ta cầu nguyện. Rồi như Chúa Giêsu dạy, chúng ta đặt mình dưới cái nhìn của Chúa Cha là Đấng nhìn thấy trong nơi bí ẩn để cầu nguyện với Người. Chỉ sau đó chúng ta mới bắt đầu cầu nguyện với Mẹ Maria và thường chúng ta xin Mẹ chuyển những lời cầu nguyện của chúng ta lên Con Mẹ. Vậy là tôn ti trật tự của việc cầu nguyện được tôn trọng rất bài bản.
Những người quyết định tận hiến mình trong lời cầu nguyện của Mẹ Maria thì họ không đi theo cách thức này. Không theo một lược đồ được phân chia, họ đi thẳng đến với Mẹ Maria để cầu nguyện với Mẹ, họ biết rất rõ lời cầu nguyện của mình đều hướng về một mình Thiên Chúa. Không chọn lựa, họ để cho Mẹ Maria đưa lời cầu nguyện của họ lên mỗi Ngôi trong Ba Ngôi Thiên Chúa, như Mẹ muốn, và nhất là theo như duy mình Mẹ biết. Mẹ cầu nguyện với họ và cho họ. Chính trong Mẹ mà họ cầu nguỵên.
Hậu thuẫn cho cách cầu nguyện này, còn có một xác tín của thánh Grignion de Montfort: “ Khi bạn cầu nguyện với Mẹ Maria, Mẹ trả lời: Chúa đây”. Mẹ Maria không giữ lại cho mình bất cứ lời cầu nguyện nào, vì Mẹ hoàn toàn trong suốt và biết rất rõ những ơn lành không đến từ Mẹ, nhưng từ Cha của nguồn ánh sáng mà từ đó mọi ân sủng được đổ xuống. Những ai cầu nguyện với Mẹ theo cách này, thì họ không đưa ra những lý luận, nhưng xác tín rằng Mẹ Maria là Đấng van xin toàn năng, và họ phải nhờ Mẹ mà cầu nguyện với Chúa Cha. Dưới sự thúc đẩy của một năng khiếu được Chúa Thánh Thần gợi lên, họ xác tín như vậy và nhận ra rằng chắc chắn đó là cách thức cầu nguyện tốt lành.
Vả lại, đây không phải là cách thức cầu nguyện có tính trường kỳ. Đó có thể là cách thức mà chúng ta chỉ sử dụng trong vài ngày. Như thánh nữ Têrêsa thành Lisieux, sau khi được ân sủng mà ngài đã nhận lúc mới bắt đầu đời sống tu trì, chúng ta có thể nói rằng trong thời gian một tuần, thánh nữ đã sống dưới sự che chở đặc biệt của Mẹ Maria và thánh nữ dường như không còn ở trên trái đất này nữa, đến nỗi ngài làm đủ thứ việc mà như không làm gì vậy. Đối với những ai, bất luận nam nữ, muốn đón nhận ân sủng và sống trong sự bao bọc hoàn toàn bởi lời cầu nguyện của Mẹ Maria cũng thế. Không ở dưới áo Mẹ, nhưng họ sống trong con tim của Mẹ, và chính ở đó mà Mẹ đón nhận tất cả lời cầu xin của họ.
Điều đó có thể diễn ra một thời gian ngắn hoặc dài, có khi chỉ vài ngày hoặc ngay cả trong vòng một giờ nguyện ngắm, rồi chấm dứt, không còn thấy sự hiện diện gần gũi của Mẹ Maria nữa. Mẹ dường như ở xa. Đôi khi người ta tự hỏi không biết mình còn yêu mến Mẹ nữa không hoặc mình đã làm gì để không còn nhận thấy sự hiện diện của Me nữa. Chúng ta không có gì mà phải tự trách mình cả, điều đó không lệ thuộc nơi chúng ta, nhưng là nơi Chúa, Đấng ban cho chúng ta ơn đó khi Người muốn và như Người muốn. Người hoàn toàn tự do. Đó là qui luật của đời sống cầu nguyện. Cần sẵn sàng sống với những đổi thay và không được áp đặt cho Thiên Chúa những ý tưởng của chúng ta. Nhưng cũng phải biết đón nhận trong niềm vui và tạ ơn, những gì Người ban. Sau một ơn ban như thế, có thể là một thời kỳ khô khan hoặc một ơn ban khác. Đùng một cái chúng ta cảm nếm được mình sống dưới cái nhìn của Cha mà từ đó phát xuất ra những ân huệ hoàn hảo. Và chúng ta mở tay ra để đón nhận tất cả, không cần phải biết bắt đầu thế nào: tạ ơn hay kêu cầu. Thực sự lời cầu nguyện của Chúa Thánh Thần không thể thấy trước được, và chúng ta phải chờ đợi mọi sự, nhất là những điều bất ngờ.
Điều đó dạy cho chúng ta đừng có quá lo điều khiển lời cầu nguyện của mình, nhưng chúng ta hãy để cho chính Thiên Chúa và Thần Khí của Người hướng dẫn chúng ta như Người muốn. Không bảo là mình đã nắm được chân lý, nhưng tôi tin rằng việc hướng dẫn chúng ta cầu nguyện trong từng chi tiết của cuộc đời, là ơn Mẹ Maria ban cho chúng ta chứ không phải là từ Chúa Thánh Thần. Những ai đã dâng cho Mẹ tất cả, đã tận hiến hoàn toàn cho Mẹ thì họ phải chờ đợi điều Mẹ can thiệp: khi nào Mẹ nghe điều đó và lúc nào Mẹ muốn điều đó. Chúng ta không còn là thầy dạy cho đời sống của mình nữa. Chính Mẹ hướng dẫn chúng ta như người hoa tiêu thay chỗ thuyền trưởng ở buồng lái của con tàu, khi phải vượt qua kênh đào Suez.
Bảo đảm và cho chúng ta một sự chắc chắn tuyệt đối trong niềm vui phó thác, là biết rằng mình được bàn tay vô cùng tốt lành của Mẹ dẫn dắt, không có gì xấu có thể xảy đến với chúng ta. Nhưng chúng ta phải hết sức cẩn thận, đừng cưỡng lại sự hướng dẫn của Mẹ trong những điều nhỏ mọn, những lời khuyên nhủ hằng ngày. Phải vâng theo từ những dấu chỉ rất nhỏ, nếu không, Mẹ sẽ cho chúng ta thấy hậu quả những chống đối và bất tuân của chúng ta. Đó là ân huệ lớn lao khi để cho Mẹ Maria hướng dẫn, nhất là trong lời cầu nguyện và trong đời sống, bởi vì chúng ta cảm thấy rõ, đó không chỉ là hành động của chúng ta được ghi dấu bởi dấu ấn của Mẹ, nhưng chính hữu thể sâu thẳm của chúng ta đã hoàn toàn thuộc về Mẹ.
3.ĐÊM NGÀY HỌ KÊU LÊN CÙNG THIÊN CHÚA.
Nếu tôi phải chọn một lời để tiếp cận với cái bí mật nhất của đời sống, thì tôi sẽ chọn lời của Chúa Giêsu trong dụ ngôn về người đàn bà góa quấy rầy: Chẳng lẽ Thiên Chúa không kíp giải oan cho những kẻ Người chọn đêm ngày kêu cứu Người sao? Chính trong lời này mà tôi nhận ra rõ nhất khuôn mặt cuả tôi theo nghĩa mà Lamartin viết : “ Con tim tôi có bí mật của nó, tâm hồn tôi có mầu nhiệm của nó”. Lời cầu nguyện thật sự là bí mật của đời tôi. Khi xác định điều đó, lập tức buộc tôi phải thêm ngay rằng, lời cầu nguyện cũng là mầu nhiệm của tâm hồn tôi. Nói như thế là tôi đã nói tất cả, nhưng lại là không nói gì. Với kinh nghiệm, tôi biết rằng lời cầu nguyện đã là tất cả, đó là nguồn vui lớn lao nhất của tôi. Không ở đâu tôi được hạnh phúc cho bằng khi cầu nguyện. Chính trong cầu nguyện mà tất cả đau khổ tiêu tan đi. Không cầu nguyện, không biết tôi sẽra sao, rất có thể là tôi sẽ mất trí. Không biết đến bao giờ tôi mới nói cho đủ rằng cầu nguyện là tất cả đối với tôi, cầu nguyện là sức sống cho cuộc đời tôi.
Đồng thời, tôi buộc phải nhận ra rằng, cầu nguyện là một mầu nhiệm. Không một từ ngữ, một ý tưởng, một hình ảnh nào có thể diễn tả được điều đang xảy ra trong tâm hồn tôi khi tôi được ơn cầu nguyện. Lúc đó tôi không còn biết mình là gì nữa, nhưng khi ơn cầu nguyện không còn, thì tôi lại biết rõ tôi là ai ! Cũng không thể nói đâu là cách cầu nguyện của tôi. Đơn giản, tôi chỉ biết rằng khi có ơn cầu nguyện thì tôi cảm thấy niềm vui tràn ngập tâm hồn tôi. Đó chính là một mầu nhiệm lớn lao. Tôi không thể chuẩn bị hoặc thấy trước lời cầu nguyện của tôi, ngay cả lúc bắt đầu cầu nguyện, thì tôi cũng không bao giờ biết phải cầu nguyện thế nào. Cũng thế, căn bản lời cầu nguyện của tôi từ lâu nay, đó là sự chuyển cầu và kêu van – điều này đã nói rồi, nhưng tôi sẽ còn nói nữa – và một ngày nào đó, việc cầu thay nguyện giúp này dọn chỗ cho cầu nguyện phó thác, thờ lạy, tạ ơn và hoàn toàn đặt mình vào bàn trong tay của Cha.
Và điều đó luôn phụ thuộc vào những biến cố hoặc những hoàn cảnh trong đời sống của tôi. Cách đây mười ngày khi nghe bác sĩ khuyên nên theo phương pháp trị liệu bằng hóa học, tôi rất khó chịu. Tệ hơn nữa những lần kiểm tra khác nhau về bệnh ung thư cho thấy tôi vẫn bình thường. Để an toàn, bác sĩ khuyên tôi nên theo phương pháp trị liệu ấy. Phải thú nhận đó là một cú sốc đối với tôi, và tức khắc tôi nghĩ đến bí tích xức dầu bệnh nhân.
Lẽ ra việc cầu nguyện của tôi có thể bị lộn xộn hoặc ngay cả không thể thực hiện được. Nếu không đi đến đó, thì nó cũng có thể mang hình thức một sự chuyển cầu để chạy trốn hiểm nguy. Tôi hết sức ngạc nhiên là lời nguyện giúp cầu thay ấy đã có trong tâm hồn tôi ngay khi tôi bắt đầu cầu nguyện. Tôi không thể cầu nguyện hay đúng hơn mắt tôi được mở ra hướng về người Cha đầy lòng xót thương, chính từ Người phát sinh mọi ơn lành. Theo một nghĩa nào đó tôi tạ ơn Người, nhưng đồng thời tôi biết rằng Người ban cho chúng ta những ơn ngoài sức chúng ta có thể cầu xin hoặc tưởng tượng ra. Chỉ còn mỗi việc mở tay ra nhận những gì Cha muốn ban cho và lời cầu nguyện cứ trào lên cách tự nhiên. Đó là lời cầu nguyện phó thác của cha Foucauld. Lời cầu nguyện như vậy ở với chúng ta mọi lúc, và khi rảnh một chút là tôi muốn cầu nguyện theo cách này.
Chúng ta kêu van đêm ngày và Người sẽ mau chóng đáp lời
Nhận ra rằng thực sự Thiên Chúa dựng nên tôi để tôi cầu nguyện và không có gì có thể ngăn chặn được sự cầu nguyện trong tâm hồn tôi, ngay cả cái chết cũng không. Điều đó có vẻ tự phụ, hay hơi kiêu ngạo; tuy nhiên đó là sự thật. Tôi tin mình vẫn tiếp tục cầu nguyện sau khi chết, cho tới ngày Chúa kitô trở lại để Người còn thấy niềm tin trên trái đất này. Tôi cũng đoan chắc rằng với những ai đến cầu nguyện bên cạnh tôi hoặc nhớ đến tôi trong lời cầu nguyện thì tôi sẽ mang lại cho họ ơn cầu nguyện và nguyện ngắm, và tôi làm điều đó dù tôi là con người đầy tội lỗi và yếu đuối. Để được vậy, tôi không cậy vào công trạng của tôi, vì lẽ tôi không thật có gì cả. Vả lại tôi cũng không muốn có, nhưng trong suốt cuộc đời tôi, Chúa đã ban cho tôi ơn cầu nguyện cách nhưng không, và nhiều người cảm thấy ơn này xảy ra nơi họ ngang qua hay nhờ trung gian những cuốn sách của tôi. Tôi tin chắc rằng tôi sẽ tiếp tục sứ mệnh này bằng lời cầu nguyện từ trên cao.
Tôi nhận được ơn gọi cầu nguyện này trong niềm tin tinh tuyền và trơ trụi. Để hướng dẫn mình và nâng đỡ mình trên con đường này, tôi chỉ có thể dựa vào ngọn lửa bé nhỏ đang chiếu sáng trong tâm hồn chưa bao giờ tắt, ngay cả trong những lúc thời tiết xấu nhất. Tôi phải sống một mình với ơn gọi này vì nó luôn là sự khó hiểu, bởi vậy nhiều người nghĩ rằng tôi sẽ có ích hơn nếu chỉ thi hành chức vụ bình thường. Nhưng tôi không thể làm cách khác được, bằng không, tôi sẽ phản bội lại tiếng nói đang thì thầm trong tôi. Và khi tôi lìa bỏ trái đất này, vài người sẽ tự hỏi tôi đã có thể đã làm được gì tốt nào. Càng hay, vì tôi được sống ơn gọi cầu nguyện này trong thinh lặng và kín đáo hơn. Thực sự tôi đã cố gắng sống ẩn giấu với Chúa kitô trong Thiên Chúa và có được cuộc trao đổi trên các tầng trời. Hôm nay tôi không lấy làm tiếc vì đã hiến toàn thân cho việc cầu nguyện, tôi chỉ tiếc là không trung thành đủ và đã không đi cho đến cùng ơn gọi này. Nhưng không bao giờ là quá trễ để khởi sự lại với ân sủng của Chúa Thánh Thần và sự trợ giúp của Mẹ Maria.
Đối với tôi thật khó mà viết ra khi tôi không ở trong ơn cầu nguyện, và lúc này ơn đó lại hiếm hoi hơn. Tuy nhiên tôi rất cần ơn đó, bởi đó là thực tại duy nhất làm cho tôi sống với thử thách trong bình an. Nhưng tôi luôn xác tín rằng chính cầu nguyện là nơi thiêng liêng nhất của tôi, ngay cả khi nó xa lạ đối với những người quanh tôi.
Có lẽ đã đến lúc tôi phải xin nhận bí tích bệnh nhân. Thứ tư ngày14 tháng 11, sau khi giải tội cho tôi, bạn của tôi là Jean Pierre đã trao đổi với tôi về bí tích này. Tôi đã cầu nguyện rất nhiều theo đoạn trích sau đây của thánh Giacôbê: “Ai trong anh em đau yếu… người ấy hãy cầu nguyện, hãy mời các kỳ mục của Hội thánh đến, họ sẽ cầu nguyện cho người ấy sau khi đã sức dầu nhân danh Chúa. Lời cầu nguyện do lòng tin sẽ cứu người bệnh” ( Gc.5,14-15 ). Tất cả đoạn văn tập trung vào sức mạnh của lời cầu nguyện do lòng tin, và lúc bấy giờ thực sự lời cầu nguyện đã chữa lành tôi. Jean Pierre đã mời tôi cầu nguyện trong sự tạ ơn dựa trên bài Tin mừng theo thánh Mathêu chương 25 cùng với ánh sáng của đoạn văn thánh Giacôbê.
Nhưng đoạn trích của thánh Luca chương 18 là đoạn kinh thánh mà tôi luôn trở đi trở lại. Nó nằm trong đoạn văn mà bản dịch TOB gán cho tựa đề: “dụ ngôn về vị thẩm phán nghe lời kẻ kiên trì kêu xin”. Tôi muốn người ta để bên sau tấm hình ngày chết của tôi những lời sau đây: “ Vậy Thiên Chúa lại không bênh vực những kẻ Người đã tuyển chọn, đêm ngày hằng kêu cứu với Người sao ? Lẽ nào Người bắt họ chờ đợi mãi? Thầy nói thật cho anh em biết, Người sẽ mau chóng minh xét cho họ. Nhưng khi Con Người đến liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng? ”( Lc 18,7- 8 ). Ở đó tôi thực sự nhận ra mặt mình như là khuôn mặt mà ít ra, đã khao khát kêu lên cùng Thiên Chúa đêm ngày. Chắc chắn tôi không đạt đến đó vì sự yếu đuối của thân xác tôi, nhưng thực sự vì sự yếu đuối ấy mà một lời cầu nguyện như thế tuyệt đối cần thiết. Trong lĩnh vực này cần phải trở nên điên dại trong những ước muốn của mình, và khôn ngoan trong việc thực thi chúng; bởi vì phải luôn luôn khao khát điều không thể, để cho lời Chúa kitô sau đây có lý: “Điều không thể đối với con người thì đối với Thiên Chúa đều có thể”. Tôi tin và tôi đoan chắc rằng, những người khao khát kêu lên cùng Chúa đêm ngày sẽ kíp được nhậm lời và cò thể nói là đã được nhậm lời, bởi lẽ người ta có được tất cả những điều mà người ta xin trong cầu nguyện; càng có lý hơn khi người ta xin ơn, và là ơn cầu nguyện. Thực sự để có được ơn cầu nguyên không ngừng, thì cần phải kêu lên cùng Thiên Chúa đêm ngày. Chúng ta tìm hiểu đoạn văn trên đây kỹ hơn.
Hiển nhiên những người đêm ngày kêu lên cùng Thiên Chúa tức khắc sẽ được Thiên Chúa nhậm lời. Tôi muốn nói tiếng đáp lại của Thiên Chúa, nằm ngay trong tiếng kêu xin của người cầu nguyện. Như Chúa Giê su nói: “ Họ sẽ được nhậm lời ngay tức khắc, không chậm trễ” ( câu 8 ). Tiên tri Isaia nói: “Trước khi chúng kêu Ta, chính Ta đã đáp lời, chúng còn đang nói thì Ta đã nghe rồi ” (65 , 24 ). Còn thời gian giữa Thiên Chúa và chúng ta, không giống nhau: “…đối với Chúa, một ngày ví thể ngàn năm, ngàn năm cũng tựa một ngày” ( 2 Pr 3,8 ). Không ở trên cùng một ghi nhớ, chúng ta kêu van ngày đêm trong thời gian kéo dài, còn Người, Người đáp lại trong phút chốc. Một cái gì đó giống như trong vĩnh cửu. Chính như vậy mà xảy ra thử thách và chiến đấu trong cầu nguyện. Vì thế Thiên Chúa muốn chúng ta cầu nguyện không ngừng và không bao giờ được nản chí. Người chọn những người có khả năng làm cho những lời cầu nguyện này trở nên thiết thực và chân thật; đối với họ cầu nguyện là sự cần thiết duy nhất, là hoạt động duy nhất. Họ ghi tạc cầu nguyện liên lỉ này trong máu huyết của họ và trong thời gian mà Chúa ban cho để họ sống. Điều muốn nói là họ sống như mọi người, nhưng ngay khi có được một chút rảnh rỗi là họ chìm đắm trong cầu nguyện suốt ngày đêm. Họ phải cầu nguyện luôn, không mệt mỏi, không phải vì muốn kiếm cho mình điều mà chúng ta đón nhận rồi, nhưng để ngọn lửa không tắt phải tiếp dầu cho đèn chứ! “Lạy Cha, Con tạ ơn Cha vì Cha đã luôn nhậm lời Con”. Nhưng khi lời cầu nguyện là một luyện tập đức tin, thì tôi cũng biết rằng cần van xin mãi. Cầu nguyện là một sự kiên nhẫn trong tình yêu, cả Thiên Chúa cũng như con người, đó là một sự trổi vượt của niềm tin, và vì vậy cũng là một sự trổi vượt của lời cầu nguyện. “Nhưng khi Con Người trở lại liệu còn thấy niềm tin trên mặt đất này nữa chăng?” ( câu 8 ).
Nếu có những con người đã dốc cả đời mình vào việc cầu nguyện, thì đó là cách sống mãnh liệt niềm tin mà Chúa Giê su khao khát gặp lại nơi những ai thuộc về Người. Để hiểu điều này, cần phải đi vào trong lòng của Ba Ngôi Thiên Chúa và nên nhớ rằng, Chúa Giêsu với tư cách là con người đi tiên phong trong việc cầu nguyện không ngừng, không nản chí. Người chính là kiểu mẫu cho chúng ta, là người cầu nguyện vĩ đại nhất, là người duy nhất bầu cử lên Chúa Cha cho chúng ta (Dt 7, 25). Ở trong cung lòng của Ba Ngôi, Con không ngừng được Cha ban cho tất cả mọi sự, luôn được Cha nhậm lời, vì Người cứ mãi kêu xin. Và trên trái đất này, Chúa Gêsu vẫn không ngừng tiếp tục lời cầu nguyện ấy. Trong khi chờ đợi mọi sự từ nơi Cha, cả cuộc sống lẫn hành động của Người, Người không ngừng dâng về cho Cha tất cả vinh quang và niềm vui. Người cầu nguyện liên lỉ và từng giây phút luôn được nhậm lời. Vì lẽ đó mà Người có thể nói: “Lạy Cha Con tạ ơn Cha vì Cha đã nhậm lời Con”. Đó không phải là Người Con mà tất cả tình yêu và niềm vui của Cha đã rợp bóng trên đó sao ? Đêm ngày Người cầu xin, và Người được nhậm lời từng giây phút, ngay cả đôi khi, trong giây lát vắng bóng lời cầu nguyện. Chúa Giêsu không chỉ cầu nguyện trong suốt cuộc đời tại thế vì sự yếu đuối của thân xác Người, nhưng Người còn cầu nguyện ngay trong lòng Ba Ngôi với tư cách là Lời, bởi vì Cha luôn lớn hơn Người và ban mọi sự cho Người.
Lời cầu nguyện của Người là hơi thở thường hằng. Người xin tình yêu từ nơi Cha (tức là Thần Khí ), và ngay tức khắc Cha nhậm bằng cách ban Thần Khí cho Người. Lời cầu nguyện của Người trải dài trong mỗi một giây phút, điều đó cho phép tôi nói rằng lời đáp nằm ngay trong lời xin. Chính vì thế mà lời cầu nguyện của Người cũng đồng thời là tiếng kêu van và lời tạ ơn. Chúng ta thật khó hiểu điều đó. Một đàng, chúng ta sống trong thời gian và không thấy được điều chúng ta xin, trong khi Chúa Giêsu lại quả quyết rằng Cha luôn nhậm lời chúng ta.Với chúng ta, cầu nguyện móc vào thời gian và như vậy nó nối liền với sự kiên trì. Khi chúng ta thấy không được gì, thì điều cám dỗ nhất đối với chúng ta là hạ đôi tay xuống. Chỉ có niềm tin mới có thể giúp chúng ta đứng vững và chính vì lẽ đó mà câu hỏi làm bận tâm Chúa Giêsu ấy là: “liệu Người còn thấy được lòng tin trên trái đất khi quay trở lại không? ” Nghĩa là, liệu Người có còn gặp được những con người đang vất vả và kiên trì trong cầu nguyện để Người tin là họ đã được nhậm lời rồi không? Thử thách đức tin trong gian truân làm cho đặc tính của cầu nguyện là trung tín. Giống như sự tha thứ: người ta tha thứ một lần, hai lần, mười lần, bảy mươi lần, nhưng ngày nào đó người ta có nguy cơ ngưng, không tha nữa. Chính vì thế tôi luôn thán phục lời của Karl Rahner trong tác phẩm: “ Những tôi tớ của Chúa kitô”. Với tôi, dường như đây là định nghĩa chính xác nhất, thế nào là một người cầu nguyện: “ Chúng ta phải là người của Thiên Chúa và nói cách đơn giản hơn, phải là người có đủ can đảm để lao mình vào trong mầu nhiệm thinh lặng của Thiên Chúa, khi cứ bề ngoài, chúng ta không nhận được tiếng đáp nào khác ngoại trừ sức mạnh để tiếp tục tin, tiếp tục hy vọng, tiếp tục yêu mến và như vậy là tiếp tục cầu nguyện”.
Xét cho cùng, khi tiến cao trên đời sống cầu nguyện, người ta càng lặn sâu vào mầu nhiệm của thinh lặng của Thiên Chúa. Người ta dần dần đi vào trong thinh lặng và không biết phải nói hay phải xin gì. Tuy nhiên từ nơi sâu thẳm nhất, người ta tin rằng cầu nguyện là điều quan trọng duy nhất, là điều duy nhất có quyền đòi chúng ta dâng hiến cả cuộc đời. quả thực, lúc đó người ta đang bơi lội trong mầu nhiệm. Vấn đề lớn lúc này là sự kiên trì: “Mọi sợi tóc trên đầu anh em đã được đếm cả rồi… nhưng ai bền đỗ đến cùng sẽ được ơn cứu độ”. Tôi phải tin vào lời này, vì việc dùng phương pháp trị liệu bằng hóa học đã làm tôi rụng hết tóc ! Rất cần có khôi hài trong cầu nguyện.
Thỉnh thoảng Chúa lại gợi lên trong chúng ta một chút niềm tin và sự cầu nguyện: Nếu con người có chút niềm tin … con người sẽ cầu nguyện ! Và khi ấy chúng ta hiểu ra tội lỗi thật của chúng ta. Đức tin là cuộc chiến duy nhất trong đời sống: Tiếp tục tin rằng Cha vẫn nghe và nhậm lời trong khi người ta không thấy có tí kết quả nào.
Chính khi ấy ta cần chạy lại với đức tin của Giáo hội. Tôi nghĩ ngay đến lời kinh tốt đẹp này, lời kinh đọc trong thánh lễ ngay trước khi xin sự bình an: “Xin đừng chấp tội chúng con, nhưng xin nhìn đến đức tin của Hội thánh Chúa và xin ban cho Hội thánh được bình an”. Tôi luôn đọc thêm câu: “ Xin cho chúng con niềm vui, lòng tin tưởng và sự cầu nguyện”. Khi cầu nguyện khó khăn hay không thể cầu nguyện được, ta hãy cầu nguyện bằng lời kinh của Giáo hội. Giáo hội có ơn cầu nguyện mạnh mẽ và không ngừng. Tôi nghĩ tới lời cầu nguyện của các đan sĩ, của các vị ẩn tu, và của tất cả những người cầu nguyện trong ẩn kín; những người này đã tiêu hao cuộc đời của mình với ước muốn làm sao đưa tất cả anh em của mình vào trong sự cứu độ của Thiên Chúa – Đó là những người bạn già nua của Thiên Chúa mà thánh Gioan thánh giá đã nói đến. Chính lúc ấy tôi nếm hưởng được lời cầu nguyện của tôi như một sự tham dự vào những lời cầu nguyện đó. Lời cầu nguyện của Giáo hội chắc chắn sẽ đưa tôi đến với lời cầu nguyện của Chúa kitô trong vinh quang, Đấng trung gian duy nhất của chúng ta ( Dt 7,25 ). Nếu tôi không biết cầu nguyện thì ít ra chính Người cầu nguyện cho tôi. Còn có lời cầu nguyện của Chúa Thánh Thần trong mỗi con tim chúng ta. Tôi thích gọi Thần Khí như là Đấng thâm nhập vào tận đáy con tim, biết tất cả những ước muốn của tôi và dâng lên Cha lời cầu nguyện và lời cầu xin phù hợp với ý Thiên Chúa. Người biết cầu nguyện. Người còn biết phải xin điều gì. Và chắc chắn kế đó, có Đức Thánh Đồng Trinh. Không bao giờ tôi cần chạy đến cùng Mẹ bằng lúc này. Mỗi đêm tôi thức dậy vào giữa khuya để lần hạt với các mầu nhiệm mùa vui. Tôi tin rằng Chúa Thánh Thần và Mẹ Đồng Trinh là hai Đấng bầu cử cao cả trong việc cầu nguyện. Cũng có các thánh là những vị tôi rất yêu mến và là những người cầu nguyện luôn, thánh Giuse, thánh Têêsa thành Lisiueux, thánh Gioan Maria Vianey, thánh Benoit Joseph Labre. Tôi cũng thích giữ những ảnh kỷ niệm hay những tấm hình của những người đã ra đi trước tôi, và tôi xin họ cầu nguyện cho tôi. Họ đông lắm. Không kể đến lời cầu nguyện của tất cả các thánh trên trời dưới đất. Tôi cũng cầu nguyện với những tâm hồn đang bị bỏ rơi nhất trong luyện tội, họ là những tâm hồn rất có thế lực trong việc bầu cử. Cách nào đó, tôi là kẻ nghèo, và tôi đi tìm kiếm lời cầu nơi những ai đáng tin cậy bên cạnh Thiên Chúa.
Đôi khi, người ta không biết tại sao, thường sau khi gặp nghi ngờ khủng khiếp, thì lời cầu nguyện lại trào lên trong chúng ta. Thoạt tiên nó như một tia sáng nhỏ dưới lớp than hồng, rồi sau đó con tim được sưởi ấm lại. Lúc bấy giờ người ta lại bắt đầu kêu xin và lời cầu nguyện như thế có thể trở thành cột lửa lớn. Các sư phụ sa mạc mạc đã nói tới những cột lửa để ám chỉ những người có đời sống cầu nguyện sâu xa. Người ta nhìn thấy mười ngón tay của Arsène như mười ngọn đuốc cháy sáng, và ngài nói: “Ngay con người bạn cũng có thể thành lửa!”. Khi sự cầu nguyện đến với ta thì tất cả những sợ hãi, đau khổ và buồn chán sẽ tiêu tan. Thật sự chỉ có cầu nguyện mới có thể chữa trị được mọi sự. Hôm nay tôi viết như vậy, để mọi người tin vào điều đó. Liệu có phải chết đi để anh em mình hiểu điều đó không ? Trong cuộc sống cũng như trong cái chết, tôi thuộc về Chúa Giêsu và tôi xin Người ban cho tất cả mọi người ơn cầu nguyện, trước tiên cho những ai mà tôi không thể giúp đỡ bằng lời nói.
Tôi tin rằng Thiên Chúa sẽ mặc khải cho những ai cầu xin cái thời mà Người sẽ làm cho họ tưởng nhớ đến Người. Về điểm này Người không thể phản lại bạn, nhưng Người sẽ thực hiện thật dịu dàng bằng cách làm cho bạn nghi ngờ rằng không biết Người có thật khát khao hương về bạn không? Nỗi khát khao Thiên Chúa của bạn chỉ là khúc xạ của một trái tim con người giới hạn nhưng lại khao khát Vô Biên. Bạn sẽ hiểu ra điều đó hơn khi bạn đi cho đến cùng cơn khát cầu nguyện của bạn, cơn khát sẽ làm cho điều đó tăng lên cùng với sự khao khát khuôn mặt của Người. Lúc nào đó người ta chìm đắm trong cầu nguyện đến nỗi lao vào cung lòng Chúa Ba Ngôi: chính trong ý nghĩa đó mà cần phải giải thích lời của thánh Philippe Neri khi ngài nói:Thiên Chúa mặc khải cho những tâm hồn cầu nguyện, lúc mà họ quay về với Người.
“…cùng một Thần Khí, kẻ thì được ban cho đức tin...” (1Cr.12,9)
Trong vòng gần một tháng trời tôi không viết lách gì cả, nhưng vì có những ngày lễ cuối năm với những gói quà kèm theo những tấm thiệp chúc mừng và những lá thơ phải trả lời, nên tôi lại tiếp tục viết. Và rồi tôi còn phải chữa bệnh với phương pháp trị liệu bằng hóa chất - buổi chữa vừa mới chấm dứt – tôi mệt lử đi sau hai buổi trị liệu. Còn chuyện này nữa, tôi theo một thứ văn chương khá đặc biệt, bởi lẽ tôi đang tiếp tục viết về “cầu nguyện đêm ngày”. Trong đó tôi thêm vào vài nét tiểu sử tự thuật, những đoạn đời khá nhiệm mầu của tôi cho tới lúc này. Tôi thực không nghĩ gì về giây phút Chúa sẽ gọi tôi ra đi, hơn nữa chính Chúa Giêsu từng báo trước cho chúng ta rằng điều đó chỉ một mình Cha biết, mặc dù tôi cảm thấy giờ ra đi của tôi đã gần.
Điều khiến tôi viết, ấy chính là tôi không còn cách nào hơn để có thể đi vào trong sự hiệp thông với người khác, bởi chỗ sưng đã ép mạnh lên thanh quản khiến tôi mất tiếng, nhất là vào cuối ngày.
Một biến cố khác khiến tôi tiếp tục viết: tôi vừa nhận được một bài luận văn do Chritine Richir ở đại học Louvain soạn thảo nhằm chuẩn bị lấy bằng cử nhân khoa tu đức; cô ta dựa vào sự tiến triển trong “thần học thiêng liêng” của tôi và vào toàn bộ tác phẩm viết tay của tôi. tựa đề bài luận: Jean Lafrance. Một tiến trình: Từ Elisabeth Chúa Ba Ngôi đến thánh Silouane.
Đọc tựa đề đó tôi có cảm tưởng là tôi biết rõ mình hơn một chút. Em gái tôi cũng ghi nhận điều đó về tôi: “ Em có cảm tưởng là em không biết anh trước khi đọc tựa đề đó”.
Tất cả những chuyện được viết đều có thật. Phải ghi nhận rằng với công việc khoa học này, cô ta đã nghiên cứu về các từ vựng của tôi, các chỗ trích dẫn, các nguồn văn, các ảnh hưởng của tôi kèm với những tấm bảng và những biểu đồ rất cảm kích.
Cô ta đã dành một tiếng rưỡi đồng hồ để phỏng vấn tôi về bài luận văn cũng như những quyển sách mà tôi tặng cô, nói về cuộc hành trình của tôi từ linh đạo Carmel cho đến linh đạo của thánh Inagnce. Tôi thấy rằng cô ta đã sửa đổi nhiều trong khi ghi chép, như thể có sự quay ngược 180 độ. Thật tiếc, bởi vì điều mà cô đã nói về những thực tập thiêng liêng của thánh Ignace, – thật ra cô ta không có lỗi gì cả – không phản ánh được điều mà tôi muốn diễn tả trong cuốn “ Hãy cầu nguyện với Cha trong kín ẩn”. Với tôi đây là tác phẩm diễn tả đời sống thiêng liêng của tôi cách tuyệt hảo nhất. Hơn nữa đó là cuốn sách thu hút được nhiều người hơn cả. Còn một điều nữa mà cô ta không nhận thấy, ngay cả khi nhấn mạnh tôi là một tác giả hiến thân cho cầu nguyện, đó là lời kêu xin trong các bài viết của tôi. Sau cuốn “Cầu nguyện của con tim”, tất cả tư tưởng của tôi xuay quanh lời kêu xin, nhất là sau lần gặp gỡ cha Molinié. Có một cuốn sách khác cũng được đánh giá cao và được nhiều độc giả ưa thích đó là cuốn “Sức mạnh của lời cầu nguyện” và quả thật tôi thường quay lại với tác phẩm này nhiều nhất. Tuy nhiên, phải công nhận, sau khi đọc xong bài luận văn, tôi buộc phải nói rằng dù sao Chritne Richir đã nhận thấy cầu nguyện là ý tưởng chủ đạo trong tác phẩm của tôi. Để kết thúc cô ta viết: “chúng tôi tưởng có thể kết luận rằng: trong tác phẩm của ngài luôn xuất hiện nỗi bận tâm trả lời cho các câu hỏi: “ cầu nguyện thế nào ? ” và nhất là “thế nào là càu nguyện không ngơi”. Chính trong luồng chủ đề đó mà ngài đã khám phá ra các tác giả thiêng liêng đã làm nên tiến trình của ngài”.
Và điều đó đưa tôi trở lại với tính khách quan của những trang sách này. Hơn nữa không bao giờ có thể tách tư tưởng thiêng liêng của một tác giả ra khỏi đời sống, ra khỏi cái cụ thể hiện sinh của người ấy. Trong ý nghĩa này tôi không lấy làm khó khăn gì để chắp nối điều tôi nói vào câu sau đây: “Cũøng một Thần Khí, kẻ thì được ban cho niềm tin”.
Niềm say mê thật sự trong đời tôi chính là cầu nguyện, nhưng tôi phải nhận rằng sự cầu nguyện đó ngày càng trở nên lời cầu thay nguyện giúp và kêu van. Tôi tin rằng Chúa Thánh Thần đã muốn ban cho tôi ân huệ đức tin, một đức tin có thể di chuyển núi đồi. Nhưng phải thêm ngay, nếu đức tin là một ân ban, thì nó đòi sự cộng tác, và tôi xin thú nhận là đã không cộng tác như ý Chúa Thánh Thần – chắc chắn vì tôi đã không dành đủ thì giờ cho nguyện ngắm, nên không sống đến cùng đức tin của tôi nên đã không thể lay chuyển được núi đồi.
Hiện nay, tôi đang đương đầu với một thử thách khác: lời cầu nguyện mà bên ngoài không thấy được nhậm lời. Quá rõ ràng là những lời Tin mừng liên quan đến cầu nguyện đã làm tôi phải hết sức lưu ý: dụ ngôn về người bạn và bà góa quấy rầy. Một lời tóm kết cuộc đời cầu nguyện của tôi: “ Tất cả những gì các ngươi nhân danh Ta mà xin cùng Cha, thì các ngươi sẽ được nhậm lời”. Thú thật, kêu xin với tất cả các thánh trên trời cứu chữa rồi, thế mà tôi thấy trời vẫn đóng kín. Nhưng tự đáy lòng, tôi tin chắc là tôi đã được nhậm lời, ngay cả khi tôi còn bệnh. Nếu không, sau hai ba năm bệnh ung thư, làm sao tôi còn sống! Nhưng thử thách vẫn còn: không làm cách nào cho khối u xẹp xuống. Lo quá.
Đôi khi tôi nghiệm thấy như sự “thinh lặng bên ngoài” của Thiên Chúa là một thử thách, bởi lẽ nó tấn công ngay vào ơn gọi cầu nguyện. Tôi có thể nói tôi sống chỉ để cầu nguyện, không những cho tôi mà còn cho mọi người và nhất là cho thế giới hòa bình. Tôi cầu nguyện cho mọi người. Khi thấy dường như không có gì xảy ra và Thiên Chúa cũng có vẻ câm lặng, thì trong tôi xuất hiện một phản ứng vô ý thức: mình bị lừa chăng? Ôi tất cả chỉ là láo toét ! Tôi thật quá đáng khi nói điều đó, nhưng dầu sao phản ứng này, không do ước muốn của tôi.
Chính vì thế mà câu trả lời của tôi không mang một cảm xúc nào. Thay vì thôi cầu nguyện, tôi lại cầu nguyện với tất cả sức lực và mãnh liệt hơn, nhất là những lúc tôi được ban cho ơn cầu nguyện, lúc đó lời cầu nguyện của tôi bỗng chốc trở nên nhẹ nhàng. Và như các tông đồ, có nguy cơ tôi sẽ chạy trốn, tìm chỗ nghỉ ngơi.
Thông thường khi ơn cầu nguyện đến lúc tôi thức dậy ban đêm, thì tôi bắt đầu cầu nguyện bằng lần chuỗi.
Còn một thử thách nữa, đại loại là: “ Cầu nguyện làm gì khi không được nhậm lời?” và thử thách nặng nề thêm khi ai đó nói với tôi – điều làm cho tôi luôn buồn cười, vì tôi biết rõ đó không phải là sự thật: “ Anh là một người cầu nguyện, thế tại sao anh không được nhậm lời ? ”. Tôi không muốn tranh cãi, tôi cố gắng cầu nguyện sống sắng hơn.
Tôi rất hiểu rằng Chúa Giêsu đã bảo phải cầu nguyện luôn, không bao giờ mệt mỏi, không bao giờ nản chí. Thời gian là một thử thách lớn trong việc cầu nguyện. Nhưng dấu hiệu cho thấy sự hiện diện của Chúa Thánh Thần, là Người thôi thúc các bạn kiên trì cầu nguyện, bất chấp tất cả. Có những ngày, tôi tự nhủ như cha sở họ Ars: “Ngay cả khi không thấy gì, tôi vẫn tiếp tục cầu nguyện, kêu van”. Hơn nữa, cả khi bị người đời phi bác về sự cầu nguyện, và khi có vẻ như ngay cả trời cũng quên tôi, tôi vẫn cứ tiếp tục cầu nguyện. Như người đàn bà góa quấy rầy, chúng ta cần có vị thẩm phán hà khắc và nhất là chúng ta không được đầu hàng trong cuộc chiến cầu nguyện này, một cuộc chiến không phải của chúng ta nhưng là của Chúa Kitô.
Có những lời trong Tin mừng tái tạo lại nơi chúng ta ân sủng và sự tin tưởng trong cầu nguyện. Có những lời bên ngoài có vẻ tầm thường do các tác giả Tin mừng viết để chuyển ý, lại gợi lên những thái độ của Chúa Giêsu. Những lời đó tác động trên tôi làm nẩy sinh những hiệu quả mà tôi không thể diễn tả được; chúng đưa tôi vào trong những vực thẳm của cầu nguyện mà tôi chẳng hiểu gì, nhưng lại làm tôi chú ý đến việc cầu nguyện. Tôi xin kể ra đây hai trường hợp nằm trong phụng vụ tuần này:
Trường hợp thứ nhất, đó là dịp cơn bão lặng yên: Sau khi từ biệt các ông, Người lên núi cầu nguyện. Sau đó, Người đi trên biển và nói với các Tông đồ: “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ !”(Mc 6, 46- 50).
Trường hợp thứ hai: Tôi gặp được trong Tin mừng ngày hôm nay. Chúa Giêsu vừa chữa lành người phong cùi (và Chúa biết những phép lạ này chất vấn tôi biết bao). Sau đó thánh Luca nói: tất cả đám đông kéo đến với Chúa Giêsu để nghe Người và được chữa bệnh. Và cách tự nhiên thánh sử thêm: “ Nhưng Người lui vào nơi hoang vắng mà cầu nguyện” (Lc 5, 16 ).
Tôi không thể diễn tả điều mà những lời này đang tác động và khơi gợi trong tôi. Như người đàn bà loạn huyết của Tin mừng, tôi muốn tiến lại gần Chúa Gêsu và đụng vào áo Người: “ Thế là tôi được tiếp xúc với Chúa Giêsu, con người duy nhất trên trái đất này biết cầu nguyện đích thực”. Tôi không muốn biết lời cầu nguyện của Người, nhưng khi ấy một tình yêu lớn lao đối với Chúa Gêsu đang trào lên trong con tim tôi, đồng thời tôi còn biết rõ rằng tình yêu này mang tính hỗ tương, và tôi biết khi hiệp thông với Người trong mọi sự, thì Người sẽ gìn giữ tôi trong lời cầu nguyện của Ngài. Đối diện với “ Chúa Giêsu đang cầu nguyện” như thế, tất cả những lời dị nghị về cầu nguyện sẽ tiêu tan, giống như tuyết dưới ánh mặt trời bị quét sạch đi hết. Tôi cũng lường được rằng Chúa Thánh Thần đã ban cho tôi ơn cao trọng trên hết mọi ơn khi kêu gọi tôi dâng hiến cuộc đời cho việc cầu nguyện. Nếu làm mọi sự vì yêu mến, thì tôi tin rằng chắc điều đó không thể mất được trong đời sống của một con người, ngay cả khi người đó chết theo thể lý. Cầu nguyện thực sự là cái gì đó thuộc đời sống vĩnh cửu … một đời sống vĩnh cửu sẽ được cắm giữa lòng thời gian. Lúc bấy giờ tôi gặp được tất cả các thánh, tất cả những người cầu nguyện trên trời cũng như dưới đất. Tôi thường cầu nguyện với Cha Saint- Seine, người đã có ơn cầu nguyện này và đã chia sẻ ơn đó cho tôi.
“Người luôn nhậm lời, khi chúng ta xin điều gì hợp ý Người ” (1Ga.5,14)
Mỗi ngày tôi được một lời đưa tôi vào trong bình an và củng cố niềm khát khao cầu nguyện của tôi, chẳng hạn hôm nay với lời: hỡi các con yêu dấu, “lý do khiến chúng ta được mạnh dạn trước mặt Thiên Chúa, đó là: Người nhậm lời chúng ta khi chúng ta xin điều gì hợp ý Người. Và nếu chúng ta biết rằng Người nhậm mọi lời của chúng ta kêu xin, thì chúng ta cũng biết rằng chúng ta sẽ được những gì chúng ta đã xin Người” (1 Ga 5, 14 – 15). Ta biết là thánh Gioan đã đón nhận lời giáo huấn này từ môi miệng Chúa Giêsu vào buổi chiều bữa tiệc ly, khi Chúa Gêsu mời gọi các Tông đồ hãy xin mọi sự với Cha nhân danh Người, và Người đoan chắc là họ sẽ được nhậm lời. Chúng ta có tin thực sự vào lời đó không ? Có những chuyện xảy đến nghịch lại với những lời xác quyết ấy đến nỗi chúng ta cảm thấy một sự mệt mỏi nào đó, một sự nhụt chí thực sự và chúng ta nói: “cầu nguyện được ích gì ? ”. Khi ấy chúng ta phải nghĩ ngay đến điều kiện mà thánh Gioan đặt ra để lời cầu nguyện được chấp nhận: phải hợp với ý Thiên Chúa. Làm sao biết được điều mình xin hợp ý Thiên Chúa? Lúc hấp hối (ở vườn Cây Dầu), Chúa Giêsu đã không được nhậm lời khi xin cho khỏi uống chén đắng. Nhưng Người vẫn tiếp tục cầu nguyện và kêu xin suốt đêm. Mỗi lần (ba lần trong thánh Mac- cô) thấy các tông đồ ngủ, Người đều khiển trách họ đã không thể thức được nửa giờ với Người. Chúng ta không cần phải hỏi làm sao biết được điều mình xin hợp ý Thiên Chúa, bởi vì khi ấy con tim nghi ngờ sẽ thâm nhập vào trong trái cây cầu nguyện và trái cây đó chưa đủ to để có sức triển nở. Thế là nó không thể trở thành hạt giống, bén rẽ, lớn lên và làm cho hòn đá cứng nhất cũng phảivỡ tan.
Phải làm gì đây? Phải tiếp tục bởi vì Chúa Kitô nói với chúng ta rằng tất cả những gì chúng ta xin cùng Cha, sẽ được nhậm lời. Thánh Gioan lại thêm: “Chúng ta biết là Người lắng nghe tất cả những lời kêu xin của chúng ta”. Phải xin mọi sự từ nơi Thiên Chúa nhưng cứ để cho Người tự do trao ban. Việc cương quyết, kiên trì không nản chí của chúng ta là dấu hiệu Thiên Chúa muốn nhậm lời chúng ta. Thiên Chúa làm cho chúng ta không khao khát cũng chẳng hy vọng bất cứ cái gì mà Người không muốn ban cho. Cũng cần phải hiểu chữ “ tất cả” này, nghĩa là Thiên Chúa muốn ban cho chúng ta nhiều hơn điều mà chúng ta không dám xin và ngay cả hy vọng. Như thánh Alphonso de Liguori nói với một sự phấn khởi rằng: tốt hơn hãy xin Chúa mười ơn thay vì một, hai hoặc ba.
Tôi tự hỏi không phải vì lý do này mà nhiều kitô hữu và nhiều người trong Giáo Hội ít lưu tâm đến việc cầu nguyện xin ơn đó sao? Hình như họ sợ bị trượt chân, mất hết, khi chạy theo cầu nguyện mà chẳng được gì! Ngay cả ngày nay, khi đã biết rõ có một sự canh tân trong cầu nguyện, Giáo hội cũng chưa khám phá đầy đủ nguồn ơn của việc kêu xin. Thực sự chúng ta rất ít khi được nghe các Giám mục nhắc nhở về việc cầu thay nguyện giúp, mà lẽ ra đó phải là chuyện thường xuyên người kitô hữu được nghe. Chỉ cần đọc các thư thánh Phao lô cũng đủ thấy giá trị lớn lao của việc cầu nguyện cho các nhà lãnh đạo quốc gia, cho các anh em trong cùng đức tin và ngay cả cho những người tội lỗi (thánh Gioan xin chúng ta cầu nguyện cho tội không đưa đến cái chết ). Đó đã là thói quen trong Giáo hội sơ khai. Ngay khi có bách hại, một tai hoạ ập đến, hay có anh em chịu đau khổ xác- hồn, thì người ta cầu nguyện và đi xin khấn: đó là chuyện tự nhiên thôi. Thế mà chúng ta thường quá nghi ngờ do dự với lời cầu nguyện này – có lẽ cần có thái độ như những trẻ nhỏ đơn sơ, cách tự nhiên chạy đến cầu xin với thánh nữ Rita.
Ngày nay trong Giáo Hội, nhiều linh mục nghi ngờ những ai muốn hiến thân duy cho việc cầu nguyện kêu cầu này, nếu như người đó không trình bày với cha sở về việc cầu nguyện ấy. Trong khi đó bên Đông phương, ngay ở Nga, người ta thấy chuyện đó hoàn toàn bình thường và còn được khuyến khích nữa là khác. Chính những người nam, người nữ này nâng đỡ thế giới và ngăn chặn không cho nó rơi xuống vực thẳm.
Hiển nhiên một ơn gọi như thế được cất giấu trong kín ẩn dưới cái nhìn của Cha trên trời. Dưới mắt người đời, dường như đó là một sự điên rồ hay đúng hơn đó là một chuyện làm mất thời gian. Vậy chẳng lẽ ngày nay không còn những người “điên trong Chúa kitô” như thế nữa sao?
Không phải vì vậy mà Chúa kitô tự đặt cho mình câu hỏi sau đây sao : khi trở lại, liệu Ngài còn gặp thấy niềm tin trên trái đất này không? Các bạn cần để ý là Chúa đặt câu hỏi đó vào cuối dụ ngôn về bà goá quấy rầy ( Lc 18, 1-8 ), liên quan đến những người được chọn đêm ngày kêu lên Chúa. Tôi tin rằng chính niềm tin đó mà Chúa Giêsu muốn tìm thấy nơi tâm hồn mỗi người khi Người trở lại. Vì thế mà Người kêu mời chúng ta hãy tỉnh thức và cầu nguyện. Tôi sẽ phải trả giá rất đắt để gặp được một con người mà Chúa kitô có thể nói, như với người đại đội trưởng trong Tin mừng: “Chưa bao giờ Ta gặp thấy một đức tin như thế trong dân Israel !” Nhưng còn có chuyện này là chúng ta được đưa vào trong lời cầu xin sau đây, vì chỉ Chúa kitô mới có thể ban cho chúng ta đức tin mà Người muốn gặp lại nơi tâm hồn mỗi người khi Người trở lại: “ Lạy Chúa, con là kẻ yếu lòng tin, xin cứu giúp và thêm đức tin cho con”.
Tôi tưởng có thể nói là tôi gặp được niềm vui trong cầu nguyện. Nếu không có cầu nguyện thì tôi đã mất bình an và sức mạnh để sống từ lâu rồi. Cầu nguyện đặt tôi bên Chúa kitô, trong Chúa Thánh Thần và dưới ánh mắt Chúa Cha. Cầu nguyện phải thường hằng. Sẽ không thỏa đáng khi ấn định cho việc cầu nguyện những thời gian nhất định, rồi sau đó, tìm giờ rảnh, làm điều mình thích! Phải trở về với việc cầu nguyện ngay khi ta có được một chút rảnh rỗi. Cũng cần phải nói ngay rằng không thể cầu nguyện được khi người ta bất ổn, ham nghe ngóng, thích chạy lăng xăng. Tôi nghiệm thấy, ngay khi yên lặng trở lại, tôi được thôi thúc phải cầu nguyện.
Việc cầu nguyện thường xuyên này luôn được đặt ở hai bình diện. Bình diện nội tâm hay bình diện “ chiều cao”. Khi mà tôi ở ngoài tôi, nhưng lại ở bên cạnh Chúa Cha và Chúa kitô. Đó là tình trạng đơn sơ của sự hiện diện, của chú tâm, của yêu thương và nhất là của kêu van. Nhưng còn có một bình diện khác ngoại tại hơn, cái bình diện mà tôi muốn gọi là sự nâng đỡ mang tính vật chất, được tạo nên do tràng hạt, các thánh vịnh và kinh nguyện Chúa Giêsu. Tuy nhiên hai bình diện này luôn tương quan với nhau. Ví dụ, có thể lần hạt nhưng đồng thời lòng tôi có thể chìm vào trong những lời của Tin mừng: Chúa Giêsu rút vào cô tịch để cầu nguyện. Cũng thế, tôi vẫn cầu nguyện cho thế giới hòa bình, chẳng bị rối loạn gì do điều này hay chuyện khác, bên trong bên ngoài.
Thật sự đó là ơn trên hết các ơn, bởi lẽ lúc này đây, không còn có điều đó nữa, tôi bị tước mất khả năng nói cùng với tất cả những hoạt động bên ngoài. Tôi xin lập lại rằng, tôi nhận ra ơn gọi ẩn tu mà tôi thoáng thấy và khao khát sống ơn gọi đó từ hồi tôi mới mười tám tuổi. Đối với tôi lúc bấy giờ quả là một giấc mơ hoàn toàn không thể thực hiện được. Thiên Chúa luôn chấp nhận một khao khát thực sự mà Người đặt vào trong tâm hồn, ngay cả khi nó gần như chỉ là ước mơ.
“Con luôn ở với cha”
Tôi tưởng rằng đây là lời nói sau cùng mà người ta có thể nói về cầu nguyện, nhất là về lời kêu xin. Đó là lời của người cha nói với đứa con trai cả trong dụ ngôn đứa con hoang đàng: “ Con à, lúc nào con cũng ở với Cha” ( Lc 15,31 ). Đích xác đó là lời của Chúa Giêsu nói với Cha Người trong Gioan: “ Con ở trong Cha và Cha ở trong Con” (Ga 17,21 ). Chúa kitô không bao giờ ở một mình, Người luôn ở với Cha (Ga 16, 32 ). Đó là tiếng sau cùng trong lời cầu nguyện .
Điều đó cho phép tôi nói rằng cầu nguyện luôn luôn được nhậm lời, hay đúng hơn tất cả những lời cầu xin với Thiên Chúa có mục đích tối hậu là nâng tôi cao lên. Vào những thời kỳ mà người ta nói tới nhiều về vấn đề cải cách trong việc viết chính tả, để làm cho người ta hiểu đề nghị của tôi, tôi muốn thay đổi cách viết chính tả chữ “exaucé” và viết nó với chữ “ h” ở giữa: “ exhaussé”, như người ta nói: nâng cao một mái nhà, một tầng lầu hay một ngôi nhà. Trong ý nghĩa ấy tôi luôn được nâng lên bởi lẽ lời cầu nguyện đã làm cho tôi lớn lên, làm cho tôi thấy cao hơn, lớn hơn, làm cho tôi vượt qua tầng cao nhất. Lời cầu nguyện không bao giờ để tôi ở yên một chỗ, nó đẩy tôi lại gần với Chúa kitô và qua đó lên với Chúa Cha.
Các sư phụ cũng diễn tảø chân lý ấy gần giống như vậy. Trong truyền thống đan tu, có đấng được xem như là vị thầy đầy kinh nhiệm về cầu nguyện và đã đào tạo hàng trăm đan sĩ về việc cầu nguyện không ngừng. Ngày nay cuốn sách “Cái thang” của ngài là sách giáo khoa cổ điển trong việc đào tạo căn bản cho người đan sĩ núi Athos cũng như đan sĩ Cophte bên Ai cập. Ở bậc 28, ngài đã đề cập đến vấn đề này. Đối với ngài không có chuyện chứng minh rằng tất cả lời cầu nguyện được Chúa nhậm lời, đó là chuyện đương nhiên bởi vì ngài đón nhận lời ấy từ miệng Vị Thầy trong Tin mừng. Lời đề nghị của ngài mang tính giáo dục hơn; ngài muốn nâng đỡ sự vất vả của người đan sĩ hiến thân cho việc cầu nguyện không ngừng và khích lệ anh ta đừng nản chí thối lui. Vì vậy ngài nói: “ Đừng lo lắng cho kết quả cầu nguyện của anh, nhưng hãy để ý đến chuyện này là lời cầu nguyện ấy đã đưa anh lại gần Chúa và nối kết anh với Người rồi. Điều đó được diễn tả như thế này:
“ Sau một thời gian kiên trì trong cầu nguyện, bạn đừng nói bạn đã không đạt được gì cả, vì bạn đã thu được kết quả rồi. Thật vậy, cao cả biết bao khi gắn chặt với Chúa và kiên trì không ngơi trong sự kết hợp với Người” (Jean Chimaque, L’Echelle Sainte. Spiritualité orientale, Bellefontaine, số 24, 1978, 28.32, trang 295 ).
Xét cho cùng, chẳng mấy quan trọng, khi đạt được điều chúng ta đã xin, căn bản là chúng ta đã quay về với Cha để kêu xin, cầu khẩn hoặc tạ ơn Người… Tắt một lời điều quan trọng đó là mối giây liên kết trong tương quan được thiết lập giữa Thiên Chúa và chúng ta và làm cho chúng ta hiện diện với Người. Chúng ta đón nhận lời cầu chúc tối hậu của Chúa Giêsu trong Tin mừng: ước mong chúng ta lưu lại trong tình yêu của Cha. Cha biết rõ điều chúng ta cần, bởi vì Người biết rõ chiều sâu thẳm của lòng ta. Hơn nữa Thần Khí của Người, Đấng dò thấu chiều sâu thẳm của các tâm hồn tạo nên lời cầu nguyện phù hợp với những ước mong của Cha. Có lẽ đây là điều duy nhất có gía trị mà ta có thể làm: “ Lạy Cha, nhân danh Chúa Giêsu, xin ban cho con Thần Khí của Cha”; phần còn lại không lệ thuộc nơi chúng ta mà là nơi Chúa Thánh Thần. Chắc chắn khao khát đi vào trong tương quan với Cha cũng lệ thuộc chúng ta (cái khao khát được Chúa Thánh Thần gợi lên): chính nơi đó hình thành mối giây liên hệ làm cho chúng ta suy nghĩ, sống và kết hợp với Chúa từng giây từng phút. Trực giác này đã làm cho thánh Tê- rê-xa thành Lesieux nói là ngài không bao giờ ở không ba phút, mà không nghĩ đến Chúa.
Đó là ý kiến của thánh Jean Climaque, người đã nói rằng cầu nguyện “làm cho chúng ta kiên trì không ngơi trong sự kết hợp với Thiên Chúa”. Như thế việc cầu nguyện xin ơn giống như một “mưu kế của tình yêu”. Đối với Thiên Chúa, Đấng muốn chúng ta không ngừng sống bằng cách ở với Người cũng như Người muốn sống bằng cách ở với chúng ta (Emmanuel: Thiên Chúa ở cùng). Chẳng quan trọng bao nhiêu việc chúng ta làm, đều thiết yếu chính là ở với Chúa. Xét cho cùng, sự gần gũi này đồng nhất hoá với sự thinh lặng, chú ý và yêu thương. Và điều đó tự phát sinh mỗi lần chúng ta ước ao tìm gặp sự cầu nguyện .
Tôi tiến tới nhiều, nhưng lại ít khát khao cầu xin – điều này không muốn nói là tôi không khao khát kêu xin – nhưng tôi không còn biết rõø phải cầu xin điều gì nữa. Tôi nghĩ rằng mình cảm nghiệm được điều mà thánh nữ Tê-rê-xa Avila đã cảm nghiệm vài năm trước khi ngài qua đời. Với thánh nữ, dường như ngài đã đánh mất những khao khát yêu mến Chúa và chỉ muốn sống để ăn uống, và ngủ. Tôi có cảm tưởng là mình cảm nghiệm được điều đó! Tôi không còn biết nói gì nữa trong cầu nguyện. Trong mọi trường hợp, có những lời thiêu đốt đôi môi và người ta không dám phát nó ra. Chẳng hạn, tôi sẽ không dám nói tôi yêu mến Thiên Chúa hay Đức Kitô nữa. Tình yêu vượt quá tôi như thế và tôi không còn biết tỏ tường đó là cái gì. Sống trong sự thật là sống trong sự nghèo nàn, tội lỗi và cả sự đau đớn thể xác. Điều tôi có thể nói, đó là: “Lạy Chúa Gêsu, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”, nhưng cũng từ đó tôi tự hỏi tôi đọc câu ấy với nền tảng chân lý nào. Lúc đó tôi thích câm lặng hơn, hoặc nói: “ Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tư û”. Tuy nhiên, không có gì, không có ai, không có nỗi thống khổ nào, như thánh Phaolô đã nói, có thể tách tôi ra khỏi lòng mến của Thiên Chúa được bày tỏ nơi Đức Giêsu Kitô.
Đó là lời cầu nguyện tinh tuyền, không mặc bất cứ một định nghĩa nào, và xét cho cùng nó đồng nghĩa với sự thinh lặng. Tuy nhiên không được lầm lẫn về bản tính của tình trạng này, vì nền tảng của nó là luôn ý thức mình ở với Thiên Chúa, Đấng hiện diện chan hòa trong mọi sinh linh, ngay cả trong thân xác, với niềm vui và sự bình an khôn tả. Điều đó có thể xảy ra trong mọi tình cảnh, trong những cuộc trao đổi, và trong những hoạt động bận rộn nhất. Điều thường gây thắc mắc ở đây, đó là người ta ý thức về tình trạng này ngoài những giờ cầu nguyện hơn là vào chính giây phút người ta cầu nguyện.
Ai sống đời cầu nguyện bên trong này thì giống như một nhà thờ chính tòa chìm dưới đáy đại dương, dù trên bề mặt người ta không thấy gì. Tất cả sự rạng ngời nằm ẩn giấu trong chỗ thâm sâu nhất của con tim. Một thí dụ khác cũng có thể giúp hiểu hơn tình trạng này, đó là hình ảnh một cánh đồng lúa mì bao la (đồng bằng xứ Bauce) phủ đầy tuyết. Bên ngoài là sự rực rỡ của màu trắng, bên trong là hạt giống bé tí đang chết đi để làm xuất hiện một mầm cây sẽ làm phát sinh những mùa gặt tương lai. Trong đời sống thần hiệp, mầu nhiệm cốt ở chỗ giác quan không cảm thấy gì cả, nhưng những cơ năng tình cảm sâu xa thì lại thấy, và chính trên những cơ năng ấy mà vọt lên tình trạng: luôn ý thức mình ở với Chúa.
Đức tin tinh tuyền và trần trụi, như thánh Gioan thánh Giá nói, đó chính là yếu tố chắc chắn nhất để có thể đụng chạm được Thiên Chúa. Đời sống đức tin vượt sang bên kia cái khả giác, tạo nên một trong những thử thách cam go nhất của đời sống kitô hữu, đặc biệt là đời sống cầu nguyện. Chúng ta thường phải gồng mình để kéo dài việc cầu nguyện, điều đó không có nghĩa là chúng ta không yêu mến Chúa kitô, nhưng chúng ta mang thân phận một con người không thể bỏ hay vượt thắng được cảm xúc. Trái lại, khi chúng ta bất chấp có cảm xúc hay không, điều đó minh chứng rằng quả thật chúng ta đang yêu mến. Chúa Giêsu nói: “ Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy” ( Ga 14,,21 ).
Khi ấy chúng ta đạt được mục đích thật của việc cầu nguyện : đó là tình yêu. Cầu nguyện không có mục đích nơi chính bản thân nó. Cái định nghĩa thế nào là một môn đệ Chúa kitô, ấy chính là tình yêu và sự khao khát thi hành ý muốn của Chúa Cha; nếu chỉ có lời cầu nguyện liên tục không thôi, cũng không đủ. Khi không có tình yêu, chúng ta phải kiên trì van xin. Chính vì thế Chúa kitô mời gọi chúng ta cầu nguyện mà không bao giờ được nản chí. Tất cả những chuyện đó là một mầu nhiệm, và ta sẽ ý thức về điều đó hơn khi ta tiến bộ trong đời sống cầu nguyện; chúng ta nên ý thức, chúng ta chưa trở thành tình yêu, và thay vì leo lên cái thang nối kết chúng ta với Thiên Chúa, chúng lại hạ những nấc thang nghèo hèn và khốn khổ của mình xuống. Điều đó chứng minh cho lời sau đây của Chúa kitô: “Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên”. Tất cả những điều đó không dễ dàng làm theo. Thật khốn khổ!
“Một Thiên Chúa ẩn mình”
Người thực là một Thiên Chúa ẩn mình, Thiên Chúa của Israel, Đấng cứu độ (Is 45,15 ). Đó chính là kinh nghiệm sâu xa nhất về Thiên Chúa mà ta có thể có được trên trái đất này, nhất là khi ta dâng hiến cả cuộc đời cho việc tìm kiếm Thánh Nhan Người. Rất đau đớn vì bị sưng khớp xương, Đức cha Ancel về cuối đời đã thú nhận (với cha Saint- Gaudens) rằng ngài không còn biết cầu nguyện nữa, nhưng sau đó ngài thêm: “ Có lẽ chính sự bất lực đó lại là sự cầu nguyện đích thực”. Nhiều lần chúng ta buộc phải thú: “ Tôi không hiểu gì nữa, vì chẳng có gì cả”, và nói như thánh Grégoire de Nazianze: “ Xin thương xót con, ôi lạy Ngài, Đấng ở bên kia mọi sự. Đó không phải là những gì người ta có thể hát ca ngợi Ngài sao?”. Anne Philippe đã viết cho chồng bà là Gérard như sau: “ Mỗi chúng ta có thể kết thúc một câu nói được khởi đầu bằng câu nói khác. Cả anh lẫn em, chúng ta là một mầu nhiệm (Le temps d’un soupir, Julliard, tr 62).
Chúng ta càng tiến lên trong sự hiểu biết một con người thì chúng ta càng khám phá ra đó là một mầu nhiệm. Vậy còn có thể nói thế nào về Thiên Chúa?
Tất cả những gì tôi nghĩ và nói về Người chỉ như là vụn bánh và tôi, miệng lưỡi đầy bụi bặm, buộc phải nhận ra như ông Gióp rằng: “ Con đã truyền tụng về Ngài, nhưng thật ra con chẳng biết gì về Ngài”. Trên đường trở về nhà, cao hứng, cha Molinié đã trả lời cho một người hỏi ngài về đời sống thiêng liêng rằng: “sau chín giờ tối, tôi không còn biết gì về Thiên Chúa”. Xét cho cùng chúng ta không biết gì về Thiên Chúa và tất cả những gì chúng ta xây dựng về Người sẽ tan vỡ như một ảo mộng. Trong mộng, người ta có thể viết hết trang này đến trang nọ, nhưng người ta vẫn còn ở ngưỡng cửa của mầu nhiệm.
Nhưng sẽ có lúc mà mầu nhiệm đó trĩu nặng đến nỗi khó có thể mang nổi, ngay cả không thể chấp nhận được, đó chính là lúc nó đụng chạm đến vấn đề hiện sinh liên quan đến sự sống hay cái chết của chúng ta. Các triết gia, ngay cả các nhà thần học đã tranh luận rất nhiều về việc không thể hiểu biết Thiên Chúa, điều đó vẫn còn xảy ra, nhưng đến khi gặp phải vấn đề sinh tử, họ cũng phải chọn giữa sự nổi loạn hoặc phó thác, giữa thất vọng hay thờ lạy. Phải nguyền rủa hay chúc tụng, phạm thượng hay ca ngợi.
“Vâng, chúng ta phải nói toạc ra, hét toáng lên rằng: làm sao người ta có thể cầu nguyện được giữa cơn khốn quẫn ấy? Làm thế nào mà con người có thể hướng nhìn lên Thiên Chúa khi mà đường lối của Người với chúng ta dường như tối tăm hơn, Thánh Nhan Người bị che khuất như nhật thực, và ân sủng Người cứ mãi nhạt nhòa đi?
“ Chớ gì đừng ai nói với chúng ta rằng Thiên Chúa có cũng như không chẳng làm được gì cả. Ý tưởng đó chống lại tất cả những gì mà Do thái giáo dùng làm biểu tượng. Thiên Chúa chia sẻ số phận con người, cả trong điều lành lẫn cái ác. Kẻ nào chúc tụng Ngài vì Jêrusalem nhưng lại không hỏi Người về Treblinka thì rõ ràng kẻ đó chỉ là giả hình. Thiên Chúa ở khởi đầu mọi hoạt động của chúng ta và cũng là chung cuộc của những hoạt động ấy. Người vừa là câu hỏi vừa là đáp án: Cái bẫy là ở chỗ này, cũng như người ta không hiểu được Auschwitz nếu Thiên Chúa có đó, thì người ta cũng không thể hiểu nổi Auschwitz nếu không có Thiên Chúa. Đâu là vấn đề: Chúng ta phải phục vụ Người hay từ chối Người? Cầu nguyện như thể không có chuyện gì, nhưng đó không phải là nhát đảm sao ? Nhát đảm, đó có phải là điều Thiên Chúa muốn nơi con người không ?
“ Chúng ta đang ở trung tâm của vấn đề làm bận tâm chúng ta … trong mức độ chúng ta gắn bó vời Người” (Elie Wiesel, lời của một người ngoại quốc).
Dầu sao tôi tin rằng vẫn còn có một thái độ khác: trường hợp ông Gióp đương đầu với những nhà thần học thử chứng minh rằng ông có lỗi. Nói cách khác, tốt hơn nên tranh cãi với Thiên Chúa trong khi vẫn tin tưởng vào Ngài hơn là câm miệng cam chịu, ôm lấy mối oán hận. Thực vậy Gióp đã nói với Thiên Chúa: “Con gì biết đâu, con chỉ phục vụ Ngài, thế mà sao hỏa ngục lại chụp xuống đầu con ?”. Khi ấy ông đã thốt lên như Chúa Giêsu trên thập giá: “Lạy Chúa con, sao Ngài lại bỏ con?”. Và Thiên Chúa lúc bấy giờ đáp lại lời ông Gióp bằng cách cho ông một bài học về sự kỳ diệu của việc sáng tạo: “ Ngươi có thể giải thích cho Ta ai đã tạo nên bầu trời và các tinh tú, ai điều khiển các mgôi sao và cho sương sa, mưa rơi và tuyết đổ ?” Bấy giờ Gióp buộc phải ngậm miệng mà tuyên bố rằng tất cả những điều đó cao cả vượt quá sức ông ! Tắt một lời ông chỉ còn biết thờ lạy mà thôi
Trong tác phẩm: “Sự khôn ngoan của một người nghèo” Clara giải thích cho Phanxicô là có những tình thế vượt quá chúng ta, bởi vì chúng lớn quá đến nỗi chúng ta chỉ còn biết thờ lạy nữa mà thôi: “ Tôi giả sử có một nữ tu nào đó trong cộng đoàn này đến cáo mình vì đã đánh bể một vật gì do vụng về hay bất cẩn: chắc chắn tôi sẽ quan sát và ra cho chị ấy một hình phạt theo thông lệ. Nhưng nếu nữ tu ấy đến nói với tôi là chị đã làm cháy đan viện và tất cả đã cháy rụi hay gần như vậy, thì tôi tin là lúc đó tôi chẳng còn gì để nói với chị ấy cả. Tôi đang đứng trước một biến cố vượt quá sức tôi. Việc tiêu tan một đan viện quả là một chuyện quá to tát đến nỗi làm cho tôi vô cùng hỗn loạn. Điều chính Thiên Chúa đã xây dựng thì không thuộc về ý muốn hay tính thất thường của một thụ tạo. Ý định của Thiên Chúa muôn đời bền vững luôn…”.
“ Ôi, nếu tôi chỉ có đức tin bằng hạt cải !” Phanxicô nói trong tiếng thở dài. Đó là lúc mà ngài cảm thấy Dòng của ngài suy đồi và mất đi nhiệt tâm thủa ban đầu. Và Clara còn thêm khi nói về đức tin: “Các bạn sẽ nói với ngọn núi này: ‘Hãy bứng ra khỏi đó’ và ngọn núi sẽ làm theo”. Ở chương tiếp theo, Eloi Leclerc đặt vào miệng Phanxicô lời sau đây: “Ôi nếu chúng ta biết thờ lạy”, và xa hơn một chút chúng ta có được những trang tuyệt vời viết về sự tinh tuyền của con tim và về sự thờ lạy. Tôi tin rằng thờ lạy là viên thuốc duy nhất khi các biến cố quá to lớn xảy ra, đến nỗi chúng ta không còn biết phải làm gì nữa. Tất cả những điều vượt quá sức chúng ta thì không lệ thuộc chúng ta. Xét cho cùng, lời kêu cầu phải nhường bước cho sự thinh lặng thờ lạy. Có những ngày, khi xin Chúa Thánh Thần ban cho đức tin mà Chúa Giêsu chờ đợi nơi chúng ta, một đức tin có thể chuyển núi dời non, chúng ta tha thiết kêu xin với tất cả sức lực đến nỗi phải bắt đầu bằng chúc tụng, ngợi khen và nhất là thờ lạy.
Phanxicô lại nói: “ Này anh Lêon, hãy tin tôi, đừng bận tâm quá đến sự tin tuyền của tâm hồn anh. Hãy quay nhìn về Thiên Chúa. Hãy chiêm ngắm Người. Anh hãy vui mừng vì chính Người là sự thánh thiện hoàn toàn. Hãy tạ ơn Người vì chính mình Người. Này người anh em bé nhỏ, có được điều đó, là có được con tim tinh tuyền.
“ Và khi anh quay về với Thiên Chúa như thế, thì đừng bao giờ nghĩ về mình cả. Đừng tự hỏi anh đang ở đâu với Thiên Chúa. Buồn vì không hoàn thiện và khám phá ra mình tội lỗi, thì anh còn là con người cảm tính hết sức thô sơ. Cần phải hướng cái nhìn lên cao hơn, luôn luôn cao hơn. Thiên Chúa có đó, với sự vô biên và ánh rạng ngời không phai nhạt. Con tim tinh tuyền là con tim không ngừng thờ lạy Đức Chúa hằng sống và chân thật. Nó có một tương quan sâu sa với chính đời sống của Thiên Chúa và giữa tất cả những khốn cùng của mình, nó có thể rung động trước sự thanh khiết và niềm vui vĩnh cửu của Thiên Chúa. Một con tim như thế vừa bị tước lột vừa được lấp đầy; Thiên Chúa là Thiên Chúa, với nó thế là đủ rồi. Chính trong đó nó gặp được sự bình an và niềm vui trọn vẹn. Và khi ấy, chính Thiên Chúa là tất cả sự thánh thiêng của nó”.
Lêon lại nói: “ Tuy nhiên Thiên Chúa đòi hỏi sự cố gắng và lòng trung thành của chúng ta”.
Phanxico trả lời: “ Phải, chắc chắn như vậy. Nhưng sự thánh thiện không phải là chuyện làm mình đầy đủ, cũng không phải là một sự tròn đầy mà người ta có thể tự mang lại cho mình. Trước tiên đó là một sự trống rỗng mà người ta phải khám phá ra, đồng thời chấp nhận nó và để cho Thiên Chúa đến lấp đầy tuỳ theo mức độ người ta mở lòng ra với sự tròn đầy của Người.
“ Anh xem, cái hư vô của chúng ta, nếu nó được chấp nhận, nó sẽ biến thành không gian trống rỗng, để ở đó Thiên Chúa còn có thể sáng tạo. Đức Chúa không để ai cướp mất vinh quang của Người. Thiên Chúa, Đấng duy nhất, một mình Người là thánh. Nhưng Người bồng ẵm kẻ nghèo trên tay, kéo nó ra khỏi bùn nhơ và đặt nó ngồi giữa những vua chúa để nó thấy vinh quang của Người. Khi ấy Thiên Chúa trở thành bầu trời xanh cho tâm hồn nó.
“ Này anh Lêon, chiêm ngắm vinh quang Thiên Chúa; khám phá ra Thiên Chúa là Thiên Chúa, Thiên Chúa vĩnh cửu, bên kia cái chúng ta là hay có thể là; tràn trề vui mừng vì Thiên Chúa là Thiên Chúa; ngây ngất trước sự trẻ trung vĩnh cửu của Người và tạ ơn Người vì chính Người, vì lòng thương xót vĩnh viễn của Người, tất cả là một đòi hỏi sâu sa nhất của tình yêu mà Thần Khí Đức Chúa không ngừng đổ vào lòng chúng ta. Có con tim tinh tuyền là sống như thế đó”.
“ Nhưng sự tinh tuyền đó không thể có được, dựa vào sức mạnh của nắm tay hay gồng mình lên”.
Lêon hỏi: “ Thế làm thế nào?”.
“ Đơn giản là không cần phải giữ gì cho mình. Hãy quét sạch tất cả, ngay cả cái cảm giác nhức nhối về sự khốn quẫn của chúng ta. Hãy trở nên trống rỗng. Hãy chấp nhận trở nên nghèo nàn. Từ bỏ tất cả những gì đang đè nặng, ngay cả tội lỗi của chúng ta. Chỉ nhìn ngắm Thiên Chúa mà thôi; và hãy để cho vinh quang đó chiếu toả trên con người của mình. Thiên Chúa có đó, thế là đủ. Khi ấy con tim trở nên nhẹ nhàng. Nó không còn cảm thấy chính mình nữa, như con chim họa mi say sưa với không gian và bầu trời. Con tim trút bỏ mọi lo âu, mọi sợ sệt. Khao khát nên hoàn thiện của nó đã thay đổi trong ý muốn đơn sơ và tinh tuyền đối với Thiên Chúa” (P. Eloi Leclerc, Sagesse d’un pauvre, Eùditions Franciscaines, pp . 164 – 167 ).
Tôi rất hiếm đọc được một bài hay đến thế và cũng là một tiếp cận thật sự với mầu nhiệm cầu nguyện. Khi Chúa Giêsu bảo các muôn đệ rút vào trong ẩn kín để cầu nguyện với Cha, thì Người cũng biết rõ chính Cha, Người cũng ẩn mình để chúng ta tìm kiếm Người cách nhưng không và vì chính mình Người. Một con người càng muốn tìm kiếm khuôn mặt của Cha thì nó càng phải ẩn mình khỏi cái nhìn của người khác; cũng thế, khi Cha thấy người nào đó tìm kiềm Người với tất cả sức lực thì Người càng ẩn mình kín hơn và trở nên vô hình. Chính khi ấy xảy ra một cuộc gặp gỡ khôn tả và mầu nhiệm nhất, ở đó Thiên Chúa thông ban chính những bí mật sâu xa nhất của Người.
Nguyện ngắm chân thật luôn xảy ra vào ban đêm
“Ôi bóng đêm hướng dẫn tôi
“Ôi bóng đêm đáng yêu hơn vầng đông,
“Ôi bóng đêm nối kết anh chàng được yêu với cô gái được yêu,
“Nàng được yêu trong tình yêu mới của chàng.”
(Saint Jean de la Croix, En une nuit obscure, trg 5).
Với những lời này
bài viết cuối cùng của Jean Lafrance đã chấm dứt.
Sáu tuần sau đó Ngài đã an nghỉ trong Chúa.
PHỤ CHƯƠNG
I
ÔI ! ƯỚC CHI NGÀI XÉ TRỜI MÀ XUỐNG.
“Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi xin nhắc lại: vui lên anh em! Sao cho mọi người thấy anh em sống hiền hoà rộng rãi, Chúa đã gần đến”(Pl 4, 4-5). Chúng ta vừa kêu xin Chúa trong phụng vụ, và tôi tin rằng trong đời sống Kitô hữu và đạo đức của chúng ta, việc chờ đợi Chúa Giêsu là một chiều kích căn bản. Nếu không có sự chờ đợi sống động và linh hoạt đó, thì làm sao có thể sống các mối phúc: nghèo khó, con tim tinh tuyền, khiêm tốn và lòng thương xót? Cần phải chờ đợi Chúa Giêsu như Đấng phải đến lấp đầy chúng ta, làm cho chúng ta tràn đầy niềm vui và bình an. Quan trọng hơn là phải đặc biệt chú ý đến sự hiện diện của Chúa Giêsu ở trung tâm lịch sử và trong con tim mỗi người.
Về sự hiện diện của Chúa Kitô bên trong chúng ta, thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Galata, chương 2 câu 20 đã diễn tả như sau:“ Không phải là tôi sống, chính Chúa Kitô sống trong tôi”.
Trong đời sống thiêng liêng, chúng ta phải duy trì hai chuyển động: Một đàng, Chúa đồng hoá với mỗi người trong chúng ta, và cách đặc biệt, như các bạn đã biết, Người đồng hoá với người nghèo, người bé mọn, người bị loại trừ; trong Tin Mừng Matthêu chương 25, Chúa nói: “Điều các ngươi đã làm cho một trong những người bé mọn nhất đây, là các ngươi đã làm cho chính ta”. Nhưng đàng khác, Người luôn ở bên ngoài chúng ta và chúng ta không ngừng chờ đón Người. Đôi khi điều đó xẩy đến với tôi khi tôi giảng cho các cô các cậu. Khi tôi hỏi họ: “ anh chị có nghĩ rằng ngày hôm nay anh chị có thể gặp được Chúa không?”, thì phần lớn họ trả lời vơí : “ Có, có chứ, đúng người ta có thể gặp Ngài, Ngài ở trong những người khác”. Không ai nói ngược lại cả, đó là chuyện hiển nhiên trước tiên. Nhưng Đức Kitô không đồng nhất hoá với người khác, Người có một khuôn mặt riêng, một khuôn mặt nói lên đặc tính của Người, và nếu đặc tính đó không cao quí hơn, thì người ta không thể tìm gặp Người nơi kẻ khác. Có một sự so sánh phải lưu ý, đó là so sánh về một người mẹ phải xa nhà. Bà có hai đứa con, một đứa mười hai tuổi, một đứa sáu tuổi. Bà mẹ nói với đứa anh : “ Mẹ phải đi bệnh viện trong vài tuần, tất cả những gì con sẽ làm cho em con, tức là con làm cho chính mẹ”. Hai anh em sẽ không quên người mẹ của mình, dù chỉ một giây, chúng chờ đợi bà. Cũng thế, một Kitô hữu không thể quên được Đức Giêsu Kitô. Nếu các bạn có sống như vậy là vì các bạn cũng như tôi, một ngày nào đó các bạn đã bị thu hút bởi khuôn mặt Chúa Giêsu Kitô, bị thiêu đốt bởi Người. Có mộtù bài hát : “ Hạnh phúc cho ai được khuôn mặt Ngài làm say mê”. Từ lúc đó chúng ta không thể quên Người được, chúng ta chờ đợi và chúng ta nói như thánh Têrêxa Avila trên giường hấp hối: “ Sau cùng chúng tôi đi gặp nhau”. Đó cũng là xác tín của thánh Phaolô. Chúa đến gần, Người trở lại. Lát nữa chúng ta thấy tại sao chúng ta kêu van, xin Người đến.
Câu sau đây rất tuyệt vời: “Anh em đừng lo lắng gì hết”, nghĩa là đừng sôi sục lên bởi những lo âu. Thánh Phao lô viết câu quan trọng định nghĩa thế nào là một đời sống cầu nguyện của người Kitô hữu trên trái đất này: “ Anh em đừng lo lắng gì cả”. Tại sao ? Bởi vì Cha thấy tất cả, và biết ta cần gì. Điều trước tiên đó là đừng lo lắng cho ngày mai. Tự bản năng chúng ta cảm thấy sợ. Thánh Phaolô bảo trong mọi hoàn cảnh đừng lo sợ. Trong cầu nguyện các bạn nghĩ đến tất cả những hoàn cảnh của cuộc sống, gợi lên trong các bạn nỗi sợ hãi, làm cho các bạn nghi ngờ về ngày mai hoặc tất cả những phiền muộn mà các bạn có thể thấy trước hoặc không lường được. Thánh Phaolô bảo chúng ta hãy cầu nguyện bằng một lời cầu nguyện được đâm rễ trong suốt cuộc sống. “Trong mọi hoàn cảnh, anh em hãy cầu nguyện, tạ ơn kêu và van để Thiên Chúa biết được điều anh em xin” ( x. Pl 4.6).Ởû đây có hai hướng của việc cầu nguyện Kitô giáo. Tất cả lời cầu nguyện Kitô giáo trước tiên là một lời cầu nguyện ngợi khen, một hành vi tạ ơn. Chúng ta tạ ơn Chúa dù cuộc sống mà Người đặt chúng ta vào có là gì đi nữa. Khi ta hiểu ra sức mạnh của lời ngợi khen và tạ ơn, thì ta sẽ bắt đầu nhìn cuộc sống cách bình tĩnh hơn, với sự bình an hơn. “ Chớ chi sự bình an của anh em được mọi người biết đến”. Có lẽ thay cho tất cả, lời ca ngợi và tạ ơn là một thái độ phải trở đi trở lại thường xuyên nhất trong lời cầu nguyện hằng ngày của chúng ta, đặc biệt vào chiều tối khi chúng ta hồi tâm. Cần phải tạ ơn vì tất cả những gì Thiên Chúa thực hiện trong chúng ta, vì tất cả những người mà chúng ta gặp gỡ và vì tất cả các biến cố xảy đến.
Về điểm này, hãy cầu nguyện. Để nhấn mạnh thánh Phaolo nói: Hãy nài xin. Vì thế tôi rất muốn dựa vào sự nài xin. Thánh Phaolô còn thêm : hãy để cho Thiên Chúa biết những lời kêu xin của mình. Trong Tin Mừng mỗi lần có vấn đề cầu nguyện thì có sự xin ơn. Người ta kêu xin bởi vì người ta có nhu cầu nào đó. Hãy nghĩ đến người bạn và người đàn bà goá quấy rầy trong Tin Mừng, đó là những con người kêu xin. Như vậy nài xin giống như đá thử vàng của một đời sống cầu nguyện. Điều đó muốn nói gì ? Đó là điều làm cho tôi suy nghĩ rằng trong đời sống có người kêu xin hoặc có người không kêu xin, có người quì xuống hoặc có người không. Trong nhiều hoàn cảnh, trong nhiều trường hợp chúng ta không thể nói cách nào khác hơn là : “Hãy cầu nguyện, hãy nài xin, và hãy xin ơn”. Nhiều lần chúng ta gặp những tình huống trong đó chúng ta không thể nói gì khác. Và vào những lúc đó chúng ta sẽ thấy rằng ai đó đang ở với chúng ta, đứng trước chúng ta, sẽ nói : “ Tôi không thể nài xin”. Có người đó kể cho tôi nghe một thử thách, và để vượt qua thử thách đó anh ta chẳng có được một lời khuyên, hoặc một gợi ý nào. Bấy giờ tôi hỏi anh: “ Thế anh có cầu xin không ?”. Anh trả lời: “ Ông không hiểu rằng khi nói với tôi điều đó ông chỉ làm cho gánh nặng của tôi thêm trầm trọng, bởi vì đó chính là điều mà tôi không muốn làm” . Điều đó hiểu ngầm là: “ Đây là điều mà tôi không muốn làm”. Bởi vì một người, khi bắt đầu kêu xin trong cuộc sống, chính điều đó nói lên rằng anh ta là một con người cầu nguyện. Tôi tin là người ta có thể cầu nguyện từng giây từng phút và có thể làm như vậy đến nỗi lời cầu nguyện đó xâm chiếm toàn bộ cuộc sống tùy theo mức độ người ta có thật sự quì xuống để kêu xin không. Có những người cầu nguyện hằng giờ theo cách của những người biệt phái, nhai đi nhai lại những lời kinh nhưng thực ra, họ chẳng cầu nguyện chi cả, vấn đề quan trọng là hiểu ra điều đó.
Có lần một bạn trẻ đến nói với tôi: “Thưa cha, cha biết đó, con chán cầu nguyện lắm”. Tôi trả lời: “Ồ!bạn biết đó, nếu thật lòng mà nói thì chúng tôi cũng chán vậy”, bởi vì chúng ta không thấy sự hiện diện của Thiên Chúa cách hiển nhiên liên tục. Nhiều lần chúng ta đi nguyện ngắm, tôi không nói là đi với đôi chân nặng nề, nhưng đơn giản là chỉ để cho giờ nguyện ngắm một thời gian và một số lần cầu nguyện nào đó; phẩm chất cầu nguyện sẽ đến sau, nhưng trước tiên người ta phải cho số lượng đã. Tuy nhiên tôi muốn nói với các bạn trẻ là: “Các bạn hãy có kinh nghiệm quỳ gối xuống một lần trong đời sống và hãy để cho tất cả những chuyện khác rơi xuống hết, khi đó các bạn mới bắt đầu cầu nguyện thực sự !” Điều đó muốn nói gì? Đó là xin người khác điều mà chúng ta không tự ban cho chính mình. Và các bạn thấy điều đó muốn ám chỉ cái gì. Tôi sẽ nói điều mà Thánh Tôma đã nói: “Ai bắt đầu cầu nguyện, thì người đó làm một phép lạ lớn lao hơn là cho một người chết sống lại”. Xét cho cùng, bắt đầu quỳ xuống, đó là một sự bùng nổ, sự bùng nổ đó huy động toàn bộ con người chúng ta, không phải là những nhân đức mà là những thái độ sâu xa.
Tôi xin lấy một thí dụ quan trọng nhất, đó là sự khiêm nhường. Các bạn biết rõ thế nào là sự khiêm nhường: cách thiết yếu đó là thái độ đứng trước một Ai khác, một Đấng-Hoàn-Toàn-Khác mà ta là thụ tạo. Khi chúng ta đã hiểu Thiên Chúa chiếm chỗ nhất, còn chúng ta ở chỗ thứ yếu, và không có chỗ thứ ba, chỉ có hai chỗ, thì chúng ta cần phải biết là chúng ta đang ở chỗ nào. Chính điều đó là gốc rễ làm phát sinh chủ nghĩa vô thần đương thời, từ chối nhận rằng có một Ai chiếm chỗ nhất. Vấn đề quan trọng là phải nhận biết được điều đó, chính vì thế mà tôi nói cầu nguyện kêu xin là một trắc nghiệm đức tin của chúng ta. Xin với một ai khác, có những người không thể làm được, không thể nói như tiếng kêu của Charles de Foucauld: “Nếu Ngài hiện hữu xin cho con biết Ngài”, bởi vì với họ chuyện đó chẳng hàm chứa gì cả. Mọi người điều có thể thực thi lời nguyện chân thật đó; nhưng dù sao điều đó cũng hàm chứa một cái gì rất sâu xa: Ước chi người ta để cho Thiên Chúa là Thiên Chúa và tự Người mặc khải cho chúng ta. Van nài là lời cầu nguyện căn bản quan trọng hơn tất cả những lời khác trong cuộc sống của chúng ta, và nếu Thánh Phaolô bảo phải kêu van để gọi Đấng đang đến, là bởi vì ngài cảm thấy rõ ràng có những kitô hữu – và đôi khi cả linh mục, tu sĩ –dành thì giờ cho việc cầu nguyện, nhưng lại kông kêu xin.
Việc cầu nguyện trong mùa vọng thiết yếu là một lời kêu van. “Lạy Chúa xin Ngài đến, chúng con chờ đợi Ngài, chúng con không thể chịu đựng hơn được nữa, chúng con đang ở dưới đáy sự khốn cùng, bụng chúng con dính sát đất, miệng chúng con ngậm cát bụi…” Chúng ta kêu lên bằng những tiếng kêu mãnh liệt, mãnh liệt đến nỗi phải nhận rằng thường thường trong khiêm tốn, chúng ta thốt lên những tiếng kêu đó khi nghĩ rằng: “Trong đời sống của tôi điều đó thực sự chiếm bao nhiêu phần trăm? Tôi có thực sự khát khao việc Chúa đến không?” Có thể có nguy cơ nầy là khi đọc những lời cầu nguyện đó chúng ta không có sự dấn thân đủ nơi bản thân chúng ta; nơi chúng ta không có một mức độ chắc chắn nào cho lời van xin. Ta có thể suy niệm, thực hành nguyện ngắm, nghĩa là có thể làm phát triển các tư tưởng, nhưng lại rất ít kêu van, bởi lẽ điều đó mang tính cách nhiệm mầu và hiếm hoi hơn mà các bạn không nghĩ tới. Tôi có quen một bạn trẻ đã trở lại lúc hai mươi tuổi. Bạn ấy đã vào dòng Đa minh. Một hôm trong khi cầu nguyện, bạn đã nghe được một lời. Như mọi người từ nhiều năm nay bạn ấy vẫn nguyện ngắm, cầu nguyện, hát thần vụ, nhưng bạn ấy nghe: “Cho đến bây giờ con chưa xin gì cả. Hãy xin thì con sẽ được” Bạn ấy nói với tôi: “Từ khi đó con có một chút chú ý đối với mầu nhiệm kêu xin. Trước đây con đã nghi ngờ”. Nếu chúng ta nghi ngờ dù một chút thôi thì đã nghi ngờ thực sự rồi.
Trong cuộc đời của các bạn điều quan trọng là phải kêu xin, và chúng ta không được viện bất cứ lý do nào –tôi trước tiên- để không làm chuyện đó, bởi lẽ nó nằm ở tầm tay của mọi người; nó phải được diễn ra trong từng giây phút. Đó kông phải là chuyện khó khăn, nhưng cũng không phải là chuyện dễ, bởi vì nó giả thiết một thái độ nghèo khó, khiêm nhường và phó thác. Điều đó có nghĩa là nói với một Ai khác: “Con chờ đợi mọi sự từ nơi Ngài”.
Tại sao lại phải kêu xin? Quả thật đây đúng là một mầu nhiệm. Tại sao học biết kêu xin lại quan trọng đến thế? Bởi vì nó đụng tới bề sâu trong chúng ta, điều mà ngày nây người ta gọi là sự hiệp thông. Chính trong sự cầu nguyện kêu van mà tất cả những vấn đề hiệp thông giữa con người với nhau được giải quyết. Cái gì có thể làm cho con người có thể gặp gỡ nhau, nếu không phải là bởi vì người nầy nói với người kia: “ Tôi xin anh, anh cho tôi cái nầy nhé !” Nếu không có cái tối thiểu là việc xin xỏ đó thì không thể có thông hiệp được. Cần phải chìa tay ra để ra khỏi mình. Chúng ta có thể biết nhiều chuyện về Chúa Kitô, biết đủ thứ chuyện ; với trí thông minh của mình, chúng ta tự hào có được một chút khôn ngoan, trong khi đó thời gian mùa vọng là thời gian phải làm phát triển trong chúng ta một thái độ khiêm tốn để thốt lên : “ Lạy Chúa là ánh sáng của trần gian, xin hãy đến !”. Chúng ta luôn cần được chiếu sáng. Chúng ta có thể sống rất tốt về đời sống luân lý, không có một lỗi nào đáng khiển trách, nhưng dù sao cũng phải kêu lên : “ Lạy Chúa, xin hãy đến, xin đến cứu chúng con !”, vì lý do đơn giản mà thánh Phaolô diễn tả trong thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô chương 13: “ Bây giờ chúng ta thấy lờ mờ như trong một tấm gương nhưng mai sau sẽ được mặt giáp mặt. Bây giờ tôi biết chỉ có ngần có hạn, mai sau tôi sẽ được biết hết như Thiên Chúa biết tôi”. Tại sao lại phải kêu xin như thế? Vấn đề là sự cảm thông, bởi lẽ Chúa Kitô là một con người và để biết một con người không có ba mươi sáu cách đâu. Như Gabriel Marcel nói, để biết người kia cần có một lời kêu van: “ Hãy cho tôi thấy khuôn mặt bạn, hãy nói cho tôi, bạn là ai vậy !”. Không có cách nào khác. Điều đó còn đi rất xa. Nó thuộc về chính mầu nhiệm của con người.
Với những cố gắng nghiên cứu, cố gắng thâm nhập bằng trí tuệ, bằng suy tư, các bạn có thể biết được tâm lý của một người ; nhưng dù có những cố gắng của ý chí, của trực giác, các bạn không bao giờ có thể biết được bí mật của người đó. Nhà thơ nào đó đã nói: “ Mỗi hữu thể có bí mật riêng của nó. Mỗi con người có mầu nhiệm riêng”. Đặc tính của bí mật đó là gì? Một cách chính xác đó là: nó chỉ được biết khi nào người ta vén mở cho kẻ mình muốn cho biết thôi. Mầu nhiệm của mạc khải là thế đó; tấm màn được cất đi để sau cùng hiểu được mầu nhiệm. Chừng nào người ta không nhìn thấy thì người ta cũng sẽ không biết được. Trong tác phẩm “ Thời gian của một tiếng thở dài” ( le temps d’un soupir) một cuốn sách đã được tái bản nhiều lần, Anne Philippe nói “ biết rõ mình quá sẽ giết chết tình yêu, với tình yêu thì mầu nhiệm là điều thiết yếu, cũng giống như mặt trời cần cho lúa mì, nhưng mầu nhiệm không cần được vun trồng tí nào cả, gìn giữ nó tức là công nhận tính mong manh của nó ; chúng ta càng đi xa trong thế giới tri thức, thì chúng ta càng nhận thấy mầu nhiệm vẫn tồn tại”. Đó là điều hiển nhiên. Các bạn càng tiến vào trong mầu nhiệm của Thiên Chúa, thì các bạn càng cảm thấy, như thánh Gioan Thánh Giá nói, chìm vào trong bóng tối. Và người ta biết điều đó. Thiên Chúa không phải là bóng tối tự nơi chính mình, nhưng Người là bóng tối vì Người là cường độ của ánh sáng. Nếu ánh sáng chói lòa thình lình ập xuống trên các bạn, thì các bạn sẽ không nhìn thấy gì cả.
Mầu nhiệm đầu tiên ởû đây đó là một Ngôi vị, và chúng ta không ngừng đặt câu hỏi : “Ngài là ai ? Hãy nói cho con biết Danh của Ngài ! Hãy cho con thấy khuôn mặt của Ngài !” Chúng ta thử tiếp cận với các nhân vật của Kinh Thánh, Môisê…và hơn hết là Chúa Kitô ; Đức Kitô không chỉ là một con người , mà là Con Thiên Chúa, Ngôi Lời nhập thể. Dù sự hiểu biết bằng trí khôn và khám phá của chúng ta về Người có đạt đến đâu đi nữa, thì bước tối thiểu trong việc hiểu biết Chúa Kitô phải là mộtï ân ban của Cha. “ Không ai đến được với Tôi nếu Cha Tôi không lôi kéo”. Hãy xin Cha lôi kéo bạn về Chúa Kitô. Đó là một sự thu hút. Tất cả là ơn ban trong đời sống thiêng liêng. Nếu hôm nay tôi phải viết một cuốn sách, thì tôi sẽ không đặt tên cho cuốn sách đó là: “ Sức mạnh của lời cầu nguyện” nữa, nhưng đúng hơn: “ Ân sủng của lời cầu nguyện”, bởi lẽ nó là điều đầu tiên cần phải biết. Cầu nguyện là một ơn ban. Hỡi các nam nữ đan sĩ chiêm niệm! Chúng ta có thể có một tiếng gọi, một tiếng gọi thực sự sống đời sống cầu nguyện, nhưng chúng ta có thể không phải là những con người cầu nguyện, bởi vì chúng ta đã không xin ơn cầu nguyện. Chắc chắn, sự hiểu biết về Chúa Kitô là một ơn ban cần phải xin: “ Lạy Cha, xin cho con nhận biết Con Cha”. Nhưng nhận biết Con Cha theo xác thịt thì không đủ như thánh Phaolô nói: “ Tôi đã không biết Người theo xác thịt, nhưng tôi biết Người trong Thần Khí”. Phải biết Người thật sự trong quyền năng Thần Khí như được diễn tả trong thành ngữ sau đây: “la dynamis tuteu”, quyền năng của Thiên Chúa, quyền năng của sự Phục Sinh mà không gì khác hơn, chính là Chúa Thánh Thần. Cần phải khám phá cho tới đó.
Đôi khi những bạn trẻ nói: “Ôi ! Như Cha biết đó, chúng con không có may mắn sống với Chúa Kitô, chúng con đã không thấy Người”. Nếu chúng ta và tôi trước tiên, đã sống với Chúa Kitô thì chúng ta đã chẳng dễ dàng nhận biết Người hơn so với những người thuộc thời Người. Chúng ta có thể thấy Người làm những phép lạ ngay trước mắt, thi hành những lời tiên báo, nhưng chúng ta có thể không nhận ra Người. Chính Chúa đã nói điều đó, thánh Gioan cũng nhắc lại ở chương thứ 3 rằng: Chúa Giêsu đã làm nhiều dấu la, có nhiều người tin vào Người, nhưng Người lại không tín nhiệm họ, bởi lẽ để nhận ra Người, rất cần phải thấy nơi Người có cái gì bí mật của Thiên Chúa, có đời sống của Ba Ngôi, và có Thiên Chúa ở với Người. Nếu các bạn không nghiệm thấy được dòng nước sống và ngọn lửa có nơi Chúa Kitô, thì các bạn hãy xin cho thấy được điều đó. Ở chương 14 Phúc âm thánh Gioan, các tông đồ nói: “Bây giờ Thầy không nói với chúng con bằng dụ ngôn nữa”. Ngài trả lời: “À phải ! Thầy không nói với anh em bằng dụ ngôn nữa, Thầy nói thẳng ra với anh em”. Tại sao ? Bởi vì “ Tất cả những gì Thầy biết về Cha thì Thầy nói cho anh em biết” . Các bạn hãy nghĩ đến chuyện đó khi chiêm ngắm, và thờ lạy Thánh Thể. Mục đích đầu tiên của việc thờ lạy là cùng với Chúa Kitô đi vào trong bí mật của Cha, và tôi phải nói rằng người ta phải để cả cuộc đời của mình để thăm dò mầu nhiệm này. Và ta có thể biết được mầu nhiệm ấy theo kiểu vật chất. Các bạn có thể biết rất rõ về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi theo một cách mà tôi xin được diễn tả là có tính qui tắc, hệ thống, nhưng các bạn chưa biết được đáy sâu của mầu nhiệm, vì thế cần phải được Thiên Chúa mạc khải.
Các bạn thấy quan trọng biết bao là việc cần ra khỏi chính mình và thốt lên lời kêu van để có được chuyện đó. Người nào càng không chịu quỳ gối xuống với những tâm tình tạ ơn, ngợi khen và yêu mến, thì nơi người ấy sẽ có một phần khác mãnh liệt hơn chỗi dậy đấu tranh vàphản đối lại thái độ trên. Ta bảo ta yêu mến, nhưng thử hỏi thực sự ta yêu mến đến mức độ nào? Càng tiến lên trong đời sống thiêng liêng ta càng khám phá có biết bao vùng trong ta mà ta chưa làm chủ. Chúng ta nghĩ rằng chúng ta là chủ của chính mình cũng như của vũ trụ, nhưng khi có chút tiến bộ chúng ta lại phải xác nhận rằng chúng ta là những con người nghèo nàn. Lúc bấy giờ chúng ta hiểu ra rằng chúng ta không thể tự ban cho chính mình, chúng ta cần phải xin một cách khiêm tốn. Tôi xác nhận – và tất cả các thánh cũng nói thế ở cấp độ siêu hình – là không có một lối thoát nào khác, và với phần lớn các thánh, điều làm nên đỉnh cao của đời sống thiêng liêng ấy chính là cách biết kêu van.
Xét cho cùng, vị thánh là con người không có một giải quyết thay đổi nào khác ngoài việc kêu van. Chúng ta luôn tìm một giải quyết thay đổi nho nhỏ nào đó từ phía chúng ta trong trường hợp mà kêu van không được ổn lắm! Chính vì điều đó mà lời cầu nguyện của chúng ta không có được sức mạnh và quyền năng có thể dời núi chuyển non, sức mạnh và quyền năng mà đôi khi người ta gặp thấy nơi những đứa trẻ và người khiêm tốn, những người đang đi trên đường phố Bac, chẳng hạn. Những người khố rách áo ôm, họ chỉ còn có lá bài duy nhất để chơi, khi đó họ đặt tất cả vào lời cầu nguyện và họ thu được tất cả. Nếu lời van xin của chúng ta không có sức mạnh tuyệt vọng này, một sức mạnh có thể bứng núi non lên và chuyển dời ra biển, thì đó là vì chúng ta muốn giải quyết bằng sự thay đổi, chúng ta không hoàn toàn phó thác cho lời cầu nguyện này.
Tôi muốn nói với các bạn ngay rằng rất là cheo leo khi mới bắt đầu cầu nguyện. Nếu có biết bao người lẩn tránh sự cầu nguyện, đó không hẳn là họ không có thời gian. Khi tôi nghe ai đó nói với tôi: “ Cha biết đó, đời sống chúng con rất náo động, chúng con phải làm chuyện này chuyện nọ”, đó không phải là chuyện ngăn trở việc cầu nguyện. Điều ngăn trở cầu nguyện, đó là khi người ta biết rõ rằng nếu người ta dấn thân vào trong đời sống ấy, thì sẽ phải dấn thân hoàn toàn. Với viễn tượng đó người ta nhẹ nhàng rút lui: “ Chưa được! Phải một thời gian nữa tôi sẽ dấn thân, còn bây giờ thì chưa!”
Vài người sẽ nói với tôi: “Thưa cha, dầu sao, thì sự thánh thiện không cốt ở chỗ cầu nguyện xin ơn, mà là ở tình yêu”. Một hôm có người nói với tôi: “thưa cha, kêu xin là một giai đoạn phải vượt qua. Còn con, con đang ở trong tình yêu và trong sự ca ngợi”. Ồ, tôi hoàn toàn đồng ý với bạn, nhưng thế nào là một tình yêu không kêu xin?! Bạn đã thấy một tình yêu không kêu xin chưa? Ngay cả tình yêu của Thiên Chúa cũng van xin chúng ta, đó là thái độ mang tính thần linh nhất. Mở cuốn Kinh Thánh ra bạn sẽ thấy. Mùa vọng đó là thời kỳ mà con người sửa soạn để đi về với Thiên Chúa, Đấng đã muốn tỏ mình ra cho con người.
Khi các bạn cầu nguyện, các bạn chỉ lời đáp trả lời van xin của Thiên Chúa. Xét cho cùng, ra sức tìm kiếm, điều đó không có nghĩa như thể chúng ta kêu van Người, nhưng chính Người van xin chúng ta! Người xin gì từ chúng ta ? Từ năm này qua năm khác, Người nói với chúng ta điều này: “ Con có cần Ta không? Con có cần Con của Ta không ?”. Trong sách sáng thế câu đầu tiên Thiên Chúa nói với Adam, mà các bạn cũng như tôi đã biết, đó là: “ Ngươi ở đâu ?” đó không phải là lời xin sao? không phải là một tiếng xin sao ? Và lời van xin cuối cùng mà Ngài sẽ thốt ra: “ Hãy đến ! Hãy đến ! Ta cần con !” (Khải Huyền). Đó là một lời van xin. Thiên Chúa van xin. Người là người đầu tiên biết được thế nào là cầu nguyện. Khi chúng ta cầu nguyện chúng ta chỉ làm chuyện đáp trả lại lời cầu xin của Thiên Chúa. Và tôi cũng sẽ nói ngay là nếu các bạn nhìn kỹ các Ngôi trong Ba Ngôi Thiên Chúa, thì các bạn sẽ thấy: Các Ngôi xin lẫn nhau. Thế nghĩa là gì ? Nghĩa là Ngôi này và Ngôi kia gọi nhau, “ Con là Con của Cha” , “Cha là Cha của Con”. Đó là gì nếu không phải là một lời xin? Các Ngôi gọi nhau. Cuộc đối thoại này thật sự là một lời cầu xin đến nỗi nó không còn nằm ì ra đó nữa, nhưng nó máy động từng giây phút. Cũng vậy, khi chúng ta cầu nguyện, chúng ta chỉ đáp lại lời kêu xin của Thiên Chúa: “Con có cần Ta không?” Chính vì thế không được bỉu môi trước lời cầu xin mà nói: “ Đó là một thái độ cần phải bỏ qua”. Ta không được bỏ qua thái độ của Thiên Chúa. Cha, Con và Thánh Thần còn nói với nhau lời cám ơn, và các Ngài xin với nhau, nói cám ơn với nhau, và các Ngài rất là hạnh phúc. Như Chúa Kitô nói: “ Cha với Ta, Chúng Ta Là Một”, “ Mọi sự của Cha là Của Con, và mọi sự của Con là của Cha”.
Ởû trong Cha và Con rung lên một chuyển động yêu thương vô cùng bao la, trong đó lời xin và lời ngợi khen quyện lấy nhau. Nếu không có mạc khải về Ba Ngôi Thiên Chúa, nghĩa là nếu Chúa Giêsu không đến mạc khải Cha cho chúng ta, thì chúng ta không thể nói gì về sự kêu xin, sẽ không có sự van xin. Mỗi lần Chúa Kitô nói về sự cầu nguyện trong Tin Mừng ( x Lc 11: người bạn quấy rầy, hay Lc18) thì Người dùng những thí dụ về ông này bà nọ đến xin một người khác. Khi Chúa Kitô nói về người bạn quấy rầy, Người đặt mình vào địa vị của người bạn quấy rầy đó, Người gõ cửa chúng ta bởi vì chúng ta đã đóng chặt cửa lòng, từ chối mở lòng ra với Người, từ chối quì xuống. Các bạn hãy thử kinh nghiệm một lần quì xuống, với lòng thành thật, trong thái độ kêu van. Các bạn sẽ thấy có một cái gì đó xảy ra. Thiên Chúa chỉ ăn xin. Như Olivier Clément nó: “Các bạn hãy mở cửa lòng của các bạn ra cho Đấng ăn mày tình yêu đang gõ cửa !” Và đó là đoạn 3 câu 10 sách Khải Huyền: “ Đây ta đứng ở cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mởi cửa, Ta sẽ dùng bữa tối vơiù nó, nó với Ta và Ta với nó”. Người chỉ ăn mày lời cầu xin của chúng ta, bởi lẽ đó là điều duy nhất mà chúng ta có thể cho Người.
Tôi không biết các bạn có nghĩ rằng chúng ta có thể cho Thiên Chúa cái gì đó không? Khi tôi còn trẻ, tôi tưởng tôi có thể cho Người tình yêu, nhưng tình yêu thì chính Người ban cho tôi ! Nhân đức, cũng chính Người ban cho. Người cho chúng ta tất cả! Còn chúng ta, chúng ta có thể cho Ngài cái gì? Hỡi các bạn! Người nói với chúng ta rằng Người chỉ cần chúng ta cho Người cái chúng ta Là: cái trống rỗng của chúng ta, con người của chúng ta, nỗi khốn quẫn của chúng ta. Các thánh bị đánh động rất nhiều bởi thái độ nghèo hèn đó. Cha sở họ Ars đã nói: “ Con người là một hữu thể nghèo nàn, luôn cầu xin mọi sự từ Thiên Chúa”. Chúng ta không biết xin Thiên Chúa. Xét cho cùng, điều mà chúng ta thiếu đó là cách chúng ta xin Thiên Chúa, kêu van Người đến trong chúng ta. Tôi thường nói câu sau đây: “ Phải xin với Thiên Chúa cách dễ thương và tế nhị”. Nghĩa là phải kiên trì kêu xin. Tất cả những ai cầu nguyện đều là những con người kiên trì nài van. Theo một nền thần học truyền thống tốt lành, kêu van, hoàn toàn không phải là chuyện bắt Thiên Chúa muốn điều chúng ta muốn, nhưng sau cùng là để đưa chúng ta tới chỗ muốn điều Thiên Chúa muốn.
Việc cầu nguyện khơi sâu nơi chúng ta một tiếng kêu chưa trào dâng, nhưng chắc chắn một ngày nào đó nó sẽ vọt lên ; ngày đó chúng ta sẽ có tất cả. Hãy nghĩ đến lời sau đây: “ Từ vực thẳm con kêu lên Ngài, Lạy Chúa”. Tôi tin rằng chúng ta không bao giờ lặn sâu cho đủ để kêu lên cùng Thiên Chúa. Khi chúng ta thực sự đi vào trong cái đáy nghèo hèn, thì Thiên Chúa sẽ nhậm lời chúng ta. Các bạn hãy coi tất cả những người tin, trước khi Đấng Mêsia đến. Đó là những người nghèo, họ chờ đợi, họ chú tâm hướng về Thiên Chúa. Còn các bạn, các bạn bắt đầu kêu xin thế nào? Hỡi các bạn! Các bạn đã sẵn sàng kêu xin từ lâu rồi! Nhưng hãy bắt đầu kêu xin đi! Bất cứ ở đâu, bất cứ cách nào, khi gặp khó khăn trong cuộc sống, trong những lúc các bạn sợ hãi, lo lắng hay đau khổ, các bạn hãy kêu xin. Nếu mọi sự cứ trôi chảy như không có vấn đề gì! Đó mới là vấn đề! Vì các bạn sẽ không có dịp để kêu van ! Nhưng tôi tin chắc rằng các bạn cũng như tôi có rất nhiều cơ hội để kêu van. Dù sao, trong cuộc sống, nếu các bạn không có dịp, thì chắc chắn qua người khác các bạn sẽ có những cơ hội, bởi lẽ khi ta lắng nghe một chút điều mà người khác nói, thì ta không thể không kêu xin. Điều làm cho các thánh thốt lên lời cầu xin, đó có thể không phải là điều họ kêu xin cho họ. Thánh Têrêxa Avila nói điều đó với các chị em nữ tu dòng kín Camel và tôi hay nhắc lại điều đó mỗi khi giảng cho các chị em: “ Nếu các chị đến đây chỉ để sống cầu nguyện hoàn toàn có tính cách cá nhân mà không nhắm tới chuyện mang lấy lời cầu xin của những người khác, thì tôi xin phép nói với chị em rằng chị em không trung thành với mẹ thánh Têrêxa !” Mẹ đã nói: “ Thế giới đang ở trong tình trạng hỗn loạn, làm sao người ta lại có thể xin với Thiên Chúa những điều không mấy quan trọng !” Chúng ta hãy kêu xin cho sự cứu độ thế giới, cho triều đại của Chúa. Vậy tôi xin các bạn: hãy kêu xin khi các bạn gặp khó khăn, rồi các bạn sẽ thấy, nếu đã bắt đâu kêu xin một lần, thì dần dà trong đời sống, việc kêu xin sẽ trở thành một thói quen. Con tim chúng ta giống như đầu máy xe lửa yếu; cần phải mang lại cho nó sức vui thú trong cầu nguyện. Người ta kêu xin một lần, rồi hai lần ; đến lúc nào đó điều ấy trở nên như hơi thở hầu như thường xuyên, như thánh Phaolô nói: “ Anh em hãy cầu nguyện và hãy kêu van trong mọi lúc”. Các bạn biết rằng điều đó có thể trở thành thường xuyên nhờ một biến cố, một sự đau khổ hoặc một con người mà chúng ta gặp gỡ. Chính từ cuộc sống mà chúng ta cần phải đến với Thiên Chúa với khí giới và hành trang: khí giới là ý chí chiến đấu và hành trang là những biến cố của cuộc đời. Thái độ này phải trở nên thường xuyên. Thánh Phaolô bảo: hãy cầu nguyện không ngừng và Chúa Kitô cũng đã nói trước đó trong Luca 18.1: “ Phải cầu nguyện luông đừng nản chí”.
Nhưng trong đời sống thiêng liêng có những lúc gặp khó khăn. Khi bắt đầu thấy mình không thể cầu nguyện liên tục được, ta tự nhủ: “ Dù sao còn có chuyện khác để làm trên trái đất này cơ mà”. Này, không phải thế ! Không có chuyện gì khác để làm cả, chỉ có việc kêu xin mà thôi. Và tôi muốn lập lại rằng điều đó được thực hiện trong đời sống thường nhật và bình thường nhất. Phải thực sự kêu xin, khởi đi từ nhu cầu mà ta nhận được từ Thiên Chúa , vì biết rằng “nếu anh em xin nhân danh Thầy, thì anh em sẽ được”. Thái độ nghèo là thái độ duy nhất có thể mang lại niều vui cho con người .
Có một thành ngữ trong thư của thánh Phaolô: “anh em hãy vui lên”. Tôi đã nghe nhiều bài giảng nói về niềm vui, và chắc chắn các bạn cũng thế; thực tế, các bài giảng đó đã không bao giờ làm tôi mãn nguyện. Tại sao ? Bởi vì người ta nói với tôi: “ Bạn hãy vui lên”, trong khi điều đó không phụ thuộc vào họ cũng như vào tôi. Ta đón nhận niềm vui từ Thiên Chúa, đó là một ơn ban. Nếu không thì dù ta có gắng sức cũng vô hiệu, niềm vui sẽ không đến. Vì vậy điều đầu tiên phải xin, đó là xin cho được niềm vui. Chỉ có những người nam nữ cầu nguyện, chờ đợi Thiên Chúa, chỉ các thánh, những người đã sống thân mật với Chúa, mới có thể sống hạnh phúc, kiên nhẫn, tốt lành, và nhất là có khả năng chuyển đến cho anh chị em mình hơi ấm của Thiên Chúa, tia sáng của vinh quang Ngài: Niềm vui. Có những người toả sáng ra trong đời sống của họ, có những vị thánh chiếu sáng. Ta không tự ý toả sáng được, khi ta quyết định chiếu sáng. Trong đời sống Kitô giáo, có cái bất hạnh này là: Người ta dạy chúng ta tin rằng chúng ta có thể đạt được niềm vui và chiếu toả ra nhờ vào ý chí và cố gắng của trí khôn, nhưng chúng ta đã không khám phá ra được cái gì cả. Với ý chí và lý trí người ta có thể đạt được chuyện gì đó. Nhưng người ta không thể toả sáng, không thể đạt tới niềm vui đích thực được chỉ với ý chí và lý trí. Niều vui thật đó là cái gì nằm bên trong con tim của một con người, nó có thể ở bên trong một con tim bị giằng xé bởi những thống khổ. Niềm vui và đau khổ cùng ngự trị trong con tim của con người: Các thánh nói rằng đó “vừa là núi Sọ vừa là núi Tabo”. Họ đau khổ bởi vì họ bị đóng đinh, nhưng họ đau khổ trong niềm vui. Nếu người ta có thể nghi ngờ về đau khổ của Chúa Kitô khi chịu khổ nạn, thì đó là đau khổ vì thấy tình yêu không được đáp trả.
Những ai đã sống tình thân mật với Thiên Chúa thì có thể giải quyết nhiều vấn đề, nhưng không thể giải quyết tất cả mọi chuyện, bởi vì các vấn đề vẫn còn đó. Tuy vậy, ít ra họ có bí quyết để ứng xử và các bạn sẽ không bao giờ làm cho họ hoàn toàn mất bình tĩnh. Người nào đã tìm gặp sự thân mật với Thiên Chúa, thì dù bạn có ngược đãi và ngay cả làm rối tung lên, thì chỉ cần năm phút để hồi tâm, họ sẽ tìm được sự tiếp xúc với Chúa, nhờ đó, gặp lại được niềm vui và bình an. Những người nam, người nữ ấy, có cái bí mật của hạnh phúc. Nhưng không có nghĩa là họ không đau khổ bằng, hoặc đôi khi hơn người khác. Họ dõi theo đời sống của các thánh, họ đau khổ, nhưng sau cùng họ hạnh phúc. Bạn cần lưu ý điều này: chỉ những người hạnh phúc mới có thể tránh được chuyện trở thành những kẻ gian ác, và cũng chỉ những người hạnh phúc mới có thể yêu mến người khác. Còn ngược lại, thì người ta không yêu mến. Tưởng rằng mình yêu mến, nhưng người ta yêu bằng một sự cố gắng của ý chí. Do đó không phải là tình yêu phát xuất từ những nơi sau thẩm của con tim. Chính vì lẽ đó mà tôi thường nói với các kitô hữu: “Nếu các bạn không có tình thân mật với Chúa Kitô, không thật khao khát muốn sống với Người, thì các bạn sẽ không thể có hạnh phúc”. Và tôi tưởng rằng đó là điều thiếu sót nhất nơi những người Tây Phương chúng ta.
Phần lớn các Kitô hữu, dù họ là những người cấp tiến hay bảo thủ, đều thiếu niềm vui. Có vài người đạt được cái mà họ gọi là đức tin rất chắc chắn, rất hợp lý, nhưng phần lớn họ đã đánh mất việc tiếp xúc với Ngôi vị của Đức Kitô. Và một kitô hữu nào đó không có gì để làm cho Chúa Kitô, không thể nói chuyện với Ngài, thì không phải là một Kitô hữu vững mạnh, ngay cả khi người đó có một đức tin sâu xa, đúng với truyền thống, và sống rất quảng đại. Một Kitô hữu là một con người thật sự có cái khao khát gặp gỡ Chúa Kitô và khao khát chính mình Người : đó là nét độc đáo của chúng ta so với các niềm tin khác. Các bạn hãy xem người Hồi Giáo, người Mác-xít, người Phật Giáo, điều làm nên học thuyết và đức tin của họ phát xuất từ việc nghiên cứu đời sống của Mahomet, đời sống của Marx, và đời sống của Đức Phật. Nhưng tối đến, khi lên giường ngủ, không ai trong họ lại nói: tôi nói chuyện với Mahomet, tôi nói chuyện với Marx, tôi nói chuyện với Đức Phật! Còn chúng ta, chúng ta có khả năng gặp gỡ Chúa Kitô. Và đâu có ai nói : Vì Marx tôi đã từ bỏ tất cả ? Không, anh ta chỉ nói: tôi hy sinh cả cuộc đời của tôi. Trong khi thánh Phaolô lại nói: “ Vì Người tôi đành mất tất cả”. chính một Khuôn mặt Người đã thu hút tôi, vì Khuôn mặt đó mà tôi thí đi tất cả, và tôi đã làm điều đó. Việc tiếp xúc với Chúa Kitô là yếu tố tạo nên một vị thánh, một con người tìm kiếm, tìm kiếm chính Người. Có thể các bạn ở ngay bên cạnh một vị thánh mà không biết. Chẳng ai để ý đến họ. Họ rất là kín đáo. Các bạn không quan tâm đến điều này là, ngay khi có được một chút rảnh rỗi, vị thánh ấy tiếp xúc ngay với Chúa Kitô. Tìm kiếm Chúa Kitô, điều đó có cái gì na ná như rà làn sóng Radio. Thường thường có những sóng nhiễu làm cho ta khó nghe, nhưng với sự kiên nhẫn, ta sẽ bắt được lời Đấng Cứu độ, và khi ta đã nghe được hai ba lần rồi thì không thể bỏ qua được nữa, ta sẽ không mệt mỏi đi tìm Lời của Thiên Chúa.
Để kết luận tôi muốn nói với các bạn rằng trong đời sống của chúng ta có một tình cảnh rất đặc biệt để gặp gỡ Chúa Kitô, đó là nỗi thống khổ. Có lẽ giữa chúng ta có những người đã có kinh nghiệm đó. Khi ta ở vào trong tình cảnh khó khăn, ta mới biết thế nào là kêu lên cùng Thiên Chúa. Và khi nhìn thấy đời sống của các thánhø ta tự nhủ: “Các ngài được biết bao ân huệ, làm thế nào mà họ có thể có được như vậy? ”. Ồ ! có lẽ người ta không thấy được sức nặng, chiều sâu của sự kêu xin: nỗi thống khổ của họ. Vì để chạm tới được con tim Thiên Chúa cần phải đi tới cùng. Thiên Chúa muốn nghe thấy tiếng kêu từ đáy nỗi khốn cùng. Khi ấy Thiên Chúa không thể không đáp lời. Chúng ta hãy chạy tìm, kêu van xin Chúa đến giúp: “A ! Giá như Ngài xé trời mà đến !”. Simone Weil nói: “nếu có một khao khát thật sự, nếu đối tượng của sự khao khát thật sự là ánh sáng, thì sự khao khát ánh sáng sẽ là phát minh ánh sáng”. Khao khát hướng về Thiên Chúa là sức mạnh duy nhất khả dĩ đưa tâm hồn vươn lên. Chính xác hơn chỉ mình Thiên Chúa đến chụp lấy tâm hồn và nâng nó lên, nhưng chỉ có khao khát mới buộc Thiên Chúa đi xuống, Người chỉ đến với ai kêu xin Người đến. Những ai xin một cách thường xuyên, kiên trì, và sốt sắng thì Chúa không thể không xuống trên họ. Đó là ơn mà tôi cầu chúc cho các bạn.
Lời chỉ dạy này cũng như phần tiếp theo,
Jean La france đã cống hiến cho chúng ta khi sưu tập lại,
nhưng cho tới giờ chưa hề được phổ biến công khai bằng bài viết.
II. SUỴT ! ĐỪNG ỒN ÀO
Trong thinh lặng, Mẹ Maria chuẩn bị đón Chúa Giêsu. Việc hồi tâm rất quan trọng, phụng vụ cũng lưu ý chuyện đó. “ Đối với Ngài ngay cả thinh lặng cũng thành lời ca ngợi và kêu xin”. Về thinh lặng của Mẹ Maria, tôi xin rút ra ba điểm. Trước tiên thinh lặng của Mẹ Maria cho đến ngày Tuyền Tin, tức là cho đến mầu nhiệm nhập thể, kế đến là khi Mẹ cưu mang Chúa Con trong lòng, sau cùng là thinh lặng vào cuối đời của Mẹ, từ nhà tiệc ly cho đến khi Mẹ chết. Chắc chắn có những lúc thinh lặng khác nhau trong cuộc đời của Mẹ Maria, Mẹ luôn là người thinh lặng và chú tâm. Nhưng ba thinh lặng mà tôi vừa nêu trên đánh dấu thực sự ba thời kỳ trong đời sống của một người phụ nữ đã chuyên chú về mầu nhiệm của Thiên Chúa.
Sự thinh lặng thứ nhất đó là thinh lặng trước khi có Mầu nhiệm nhập thể, thinh lặng có tương quan với lời nói. Mẹ Maria đón nhận Lời của Thiên Chúa mặc xác phàm, nên Mẹ đã thinh lặng hơn bất cứ ai khác. Các bạn biết rõ Thiên Chúa không lắm lời. Người không nói vu vơ. Đó là điều khác với chúng ta là những con người đáng thương. Cần phải thường xuyên suy nghĩ rằng: chúng ta là những con người được trao cho nhiệm vụ mang Lời Thiên Chúa đến cho thế giới. Khi một ai đó nói ra, thì người đó diễn tả những suy nghĩ, những ý tưởng, những tâm tình nhưng lại không diễn tả được chiều sâu của con người mình. Trái lại khi Thiên Chúa nói, Người chỉ có thể nói tới cái chiều sâu, chỉ có thể nói chính Con của Người, cũng chính là bản thể Người, như thư gửi tín hữu Do Thái, chương thứ nhất nói: “Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử”, Đấng rạng ngời vinh quang của Người, hình ảnh của bản thể Người. Nghĩa là khi Cha nhìn thấy trước mắt Lời của Mình, thì Người thấy một phản ảnh vinh quang của Mình, đồng thời Người nhìn thấy bản thể của Mình là yếu tố làm nên hữu thể Người.
Bi kịch đối với chúng ta, đó là chúng ta đã không nói điều chúng ta làm và không làm điều chúng ta nói. Điều bi đát, nỗi đau khổ vô cùng của một người cha, đó là ông không đựơc hoàn toàn ở trong đứa con của mình mà thường thường, khoảng mười bảy tuổi, đứa con muốn tách biệt hoàn toàn với cha của nó. Đức Kitô là hữu thể duy nhất đã hoàn toàn trùng hợp với Cha Người. Tôi xin phép được nói với các bạn điều này – điều này không mang tính cách thần học, nhưng sẽ soi sáng cho các bạn – Người là hữu thể duy nhất hiệp thông trọn vẹn với Cha. Còn chúng ta, chúng ta có nhiều vấn đề về người cha. Tâm lý học nói cho chúng ta biết điều đó. Chúng ta phải im lặng vì Đức Nữ Trinh đã lặng thinh và bởi lời nói hay phỉnh gạt chúng ta. Thật là nghịch lý khi một nhà thuyết giáo nói rằng cần phải im lặng, ông ta có làm thinh được đâu. Nhưng cái thú vị trong việc thuyết giảng không phải là điều mà người ta nói. Các Giáo Phụ lưu ý: “Anh chị em đừng chú ý đến điều tôi nói, nhưng hãy chú ý đến điều tôi không nói, đến mầu nhiệm mà tôi đang dẫn anh chị em vào”. Những người thuyết giảng không luôn luôn đánh động được con tim của con người. Tất cả những lời mà một linh mục thốt ra, dù trong khi thuyết giảng hoặc trong khi đối thoại cá nhân, chỉ có thể sinh hoa trái nếu nó được tác động bởi ân sủng. Đó là yếu tố quan trọng mà những ai dấn thân cho việc cầu nguyện cần phải có, bởi vì họ xin cho lời đó trở nên linh hoạt, có khả năng đem lại sinh khí.
Toàn bộ đời sống thiêng liêng sẽ nói với chúng ta rằng để nghe được lời của Thiên Chúa, cần phải thinh lặng. Thinh lặng của Mẹ Đồng Trinh trước ngày Truyền tin là một sự thinh lặng hoàn toàn có tương quan với việc nghe Lời Thiên Chúa. Nhiều năm về sau xuất hiện một người, thánh là Gioan Thánh Giá, Ngài nói : “ Chúa Cha chỉ nói một Lời duy nhất, đó là Con của Ngài, Ngôi Lời của Ngài. Ngài nói Lời đó trong sự thinh lặng vĩnh cửu, chính trong thinh lặng mà tâm hồn nghe được Lời của Chúa”. Chính vì thế mà ta phải thinh lặng như Đức Nữ Đồng Trinh.
Cần đưa ra đây hai chuyển động trong việc cầu nguyện của chúng ta. Có những ngày ta kêu van, ta kêu rất lớn lên cùng Thiên Chúa, và có những ngày ta rút vào trong thinh lặng. Con người phải thinh lặng để đón nhận Lời của Người. Chính để đón nhận lời đó mà Mẹ Maria cần thinh lặng, một sự thinh lặng như thế hoàn toàn trống rỗng về mọi tư tưởng, mọi ước muốn, và ngay cả mọi chờ đợi. Mẹ Maria đã trở nên sự thinh lặng. Nói đúng hơn, như thể Chúa Cha đã đặt Mẹ vào trong sự thinh lặng hoàn toàn trước mặt Người để một ngày nào đó Mẹ có thể đón nhận Lời Thiên Chúa. Dần dần Mẹ quen với việc sống thinh lặng, và chính vì thế mà chúng ta phải nhìn Mẹ để lắng nghe Lời của Thiên Chúa nói với Mẹ trong Kinh Thánh. Dần dà Mẹ đã học được sự thinh lặng này, một sự thinh lặng trở nên trống rỗng với chính mình để đón lấy Lời của Thiên Chúa, đón lấy chính Ngài. Cái nguy hiểm của những kỹ thuật bên Đông, đó là chúng có nguy cơ làm trống rỗng con người nhưng lại không cho phép con người lấp đầy chính mình sự hằng sống của Thiên Chúa. Còn chúng ta, chúng ta chấp nhận một sự trống rỗng nào đó bởi vì chúng ta biết rằng Thiên Chúa sẽ lấp đầy chúng ta. Thánh Gioan Thánh Giá nói : “ Cần phải trải qua tình trạng không có gì, để tìm lại tất cả”. Lúc nào đó khi đã trải qua tình trạng ấy, ngài nói : “ Đất thuộc về tôi, trời thuộc về tôi, Mẹ Đồng Trinh thuộc về tôi…”; tất cả tạo thành tuôn đến với ngài, nhưng tạo thành đó dường như đã được thanh luyện, một tạo thành mà có lẽ ngài chưa hề đụng tới. Điều đó rất quan trọng đối với đời sống thiêng liêng của chúng ta, cách riêng với những lãnh vực mà chúng ta biết tới, dù đó là lãnh vực thuộc về những lợi ích của con người, những tình cảm tốt lành của chúng ta… đôi khi chúng ta cần từ bỏ mình để tìm gặp lại chúng.
Vậy chính Đức Nữ Đồng Trinh đã hoàn toàn sống trong sự thinh lặng, và dần dần điều đó đã đưa Đức Mẹ đến sự thinh lặng sâu xa hơn, như cha Raguin nói: “khi Thiên Chúa nghĩ rằng Mẹ đã thực hành đủ sự thinh lặng này tuỳ theo sức của Mẹ, thì Thiên Chúa đã đặt Mẹ vào trong sự thinh lặng còn sâu xa hơn”. Và khi ấy Mẹ Maria thinh lặng hơn tất cả mọi người. Trong cửa kính của một nhà thờ chính toà Chartres, Đức Nữ Đồng Trinh đứng trên ngọn của cành Jessê. Tất cả các tiên tri, Abraham, những người tội lỗi hay không tội lỗi thì ở xung quanhø chiêm ngắm Đức Maria. Mẹ Đồng Trinh đã được Thiên Chúa chuẩn bị bằng một cách thức hoàn toàn đặc biệt cách nhưng không, “Chúa đã cho Đức Maria cưu mang mà không mắc tội nào bằng cách chuẩn bị cho Mẹ tất cả những đặc sủng do công ơn Con của Người, phát xuất từ cuộc thương khó vinh quang của Ngài”. Phải thường xuyên chiêm ngắm Mẹ Maria trong tất cả những ơn mà Me nhận từ Thiên Chúa: Ơn vô nhiễm nguyên tội, ơn làm Mẹ Thiên Chúa, ơn lên trời cả hồn lẫn xác. Tất cả những ơn đó Mẹ nhận lãnh cách nhưng không, và chính mẹ hát lên: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa vì Người đã đoái nhìn đến phận hèn tớ nữ”.
Tuy nhiên, nếu đó là ơn nhưng không của Thiên Chúa thì không ai có quyền độc chiếm. Nơi Đức Maria có một điều gì đó thu hút con tim Thiên Chúa. Đó là một mầu nhiệm đã làm cho thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsunói đến: “Nếu Thiên Chúa tìm thấy một tâm hồn còn khiêm tốn hơn Đức Nữ Đồng Trinh, thì Người còn làm cho tâm hồn đó tràn đầy ơn sủng hơn nữa”. Điều thu hút Thiên Chúa, tôi tưởng rằng đó chính là sự nghèo hèn của Đức Maria, sự khiêm hạ, niềm tin và sự phó thác của Mẹ. Khi Thiên Chúa thấy ai đó hoàn toàn tước bỏ chính mình thì Người đến lấp đầy. Sự khiêm nhường của Đức Nữ Đồng Trinh, sự thinh lặng của Mẹ là thế đó. Khi ta nói rằng Mẹ chúng ta là đỉnh cao của khiêm nhường, thì điều đó muốn nói rằng Mẹ đã nhìn thấy một phản chiếu lờ mờ từ sự thánh thiện của Thiên Chúa. Mỗi khi người ta thấy được điều đó thì làm sao người ta có thể tự coi mình là quan trọng trên trái đất nầy nữa? Khiêm tốn sẽ chống lại mặc cảm tự tôn cũng như mặc cảm tự ti, các mặc cảm này là những cái nhìn quy hướng về mình. Trong khi khiêm nhường thiết yếu là một cái nhìn hướng về Thiên Chúa. Cũng như Đức Maria, bạn cũng hiểu ra rằng Thiên Chúa là Đấng cao cả, Người là Đấng thánh và Người luôn nhìn đến đầy tớ khiêm tốn của Người, thì bạn không còn có thể nhìn đến cái gì khác. Chính vì vậy mà Mẹ đã được đặt trong một sự thinh lặng hoàn toàn sẳn sàng.
Sự thinh lặng đó đã xảy ra nơi Mẹ ngay từ lúc mà Mẹ đã cảm thấy điều thiên Chúa muốn nói nơi Mẹ. Nơi thánh Luca có một lời lặp lại hai lần khi nói về Mẹ Maria, ở chương 2 câu 19 và 51: “Còn Mẹ Maria thì ghi nhớ tất cả những sự việc đó trong lòng và suy đi gẫm lại”. Mẹ Maria làm thinh, và tôi tưởng đó cũng chính là ý nghĩa cho sự trinh khiết của Mẹ. Tuy nhiên, ở đây Mẹ đã đáp lại bằng một câu hỏi, một câu đã làm cho các nhà chú giải phải tốn bao nhiêu giấy mực từ thánh Augustinô cho đến Cajetan: “Điều đó xảy đến thế nào được, bởi vì tôi không biết đến người nam?” Mẹ đã nói thế còn các nhà chú giải sau Mẹ thì nói: “Điều đó làm sao có thể xẩy vì tôi không chờ đợi nữ tính tròn đầy của tôi ở nơi một người đàn ông cũng phải chết như mọi người?” Vì Mẹ nhớ câu “Hôn phu của ngươi là Đấng sáng tạo ngươi” (Isai 54,5) cơ mà! Cần phải thường xuyên chiêm ngắm sự trinh trắng của Mẹ Maria, bởi vì chúng ta chỉ có thể hiểu được mầu nhiệm trinh khiết riêng của chúng ta dưới ánh sáng khiết trinh của Mẹ.
Đôi lúc người ta nói rằng sống đức trinh khiết trong đời sống độc thân ấy là yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự. Đúng thế, nhưng đó mới chỉ là phần bé nhỏ của mầu nhiệm khiết trinh. Mầu nhiệm khiết trinh, đối với Mẹ Maria, thiết yếu là ý thức lời sau đây của thiên thần : Hãy vui lên hỡi người đầy ơn phúc, bởi vì Chúa ở cùng Mẹ. Cần phải dừng lại lâu trên lời này. Khi ai đó một lần trong đời nghe được câu: “Bạn đầy ơn phước” thì tôi nghĩ người ấy không còn có thể nói lên cái gì cao cả hơn được nữa, người ấy hoàn toàn ở trong sự thinh lặng. Nếu trong cuộc đời dù chỉ một lần bạn chưa hề có kinh nghiệm mình được yêu mến, thì bạn phải biết là người ta không thể nói với bạn được điều gì về tình yêu. Câu “ Mẹ đầy ơn phúc” muốn nói lên điều gì? Chúng ta nghĩ tới sự đầy tràn ơn sủng, tới ơn thánh hoá. Quan niệm ấy thực tế không được biết đến trong cựu ước. Đối với cựu ước, nói : “ Mẹ đầy ơn phúc” có nghĩa là: “Mẹ hãy vui lên, Mẹ là người được Chúa yêu dấu”, tức là “Mẹ được Thiên Chúa sủng ái”. Môsê đã từng nói: “Con được sủng ái trước mắt Ngài”. Được sủng ái trước mắt Thiên Chúa! Khi một ai nghe thấy điều ấy, dù chỉ một lần, thì làm sao người đó lại không run lên? Theo nguyên văn câu Kinh Thánh là: “Nghe những điều ấy, Mẹ đã bối rối”. Tại sao Mẹ lại bối rối? Bởi vì Mẹ tự hỏi lời chào đó từ đâu đến. Mẹ tập trung cái nhìn về Thiên Chúa chứ không phải về Mẹ. Đó là một mầu nhiệm, và điều đó được ban cho cách nhưng không.
Còn chúng ta, chúng ta không được tạo nên như thế. Bởi vì tội lỗi đã in dấu trên chúng ta, chúng ta hay tập trung vào mình, tuy nhiên không phải là lỗi của chúng ta. Khi chúng ta bắt đầu hiểu được rằng trong cuộc đời có 95 % là đau khổ và khốn quẫn, còn 5% là tội lỗi, thì chúng ta phải biết rằng có 95% khốn khổ mà người ta đã không chọn. Khi ấy ta mới hiểu được câu: “Ta đến vì kẻ nghèo hèn và người tội lỗi”. Khi Mẹ Maria nghe được câu: Mẹ là người yêu dấu của Thiên Chúa, thì Mẹ hiểu ra rằng Mẹ không thể làm gì khác hơn là giao phó cho Thiên Chúa thân xác và tâm hồn. Khi ta được yêu thương bởi Thiên Chúa, bởi Đấng luôn theo dõi từng giây từng phút trong cuộc đời ta, Đấng đếm từng sợi tóc trên đầu, thì ta không thể trao hiến mình cho một tình yêu nhân loại nào nữa.
Cần phải khám phá ra tình yêu của Thiên Chúa để đi vào trong mầu nhiệm tiệc cưới vĩnh cửu. Nếu người ta không bị đốt cháy bởi ngọn lửa tình yêu ấy, thì một ngày nào đó sẽ có một ngọn lửa khác đốt cháy chúng ta, ngọn lửa của dục vọng. Một nhà thần học đã nói: “Những người hiến dâng mình trong mầu nhiệm của tiệc cưới vĩnh cửu là những người được đốt nóng tới 39 độ”. Thông thường người ta sống ở 37 độ trong khí hậu bình thường. Nhưng khi được Thiên Chúa đụng vào thì người ta nóng lên 39 độ. Bạn chỉ cần quan sát một cậu con trai khi bước vào đời sống đan tu, hoặc một cô gái khi trở thành một nữ tu, họ không thể không nóng lên ở nhiệt độ cao đó sao! Người ta nhận thấy có cái gì đó khác thường nơi họ. Chỉ có điều đó mới thúc đẩy chúng ta hành động, mặc dù không coi thường tình yêu nhân loại, bởi lẽ đó là một vẻ đẹp, và tôi xin nói ngay với các bạn dù một giây tôi cũng không loại bỏ tình yêu đó, nhưng tôi muốn nói chỉ có tình trạng nóng bỏng trên đây mới đẩy chúng ta đến chỗ tự để cho một tình yêu sâu xa khác xâm chiếm. Nếu ta không được tình yêu đó sưởi ấm, thì ta đang ở trong tình trạng nguy hiểm đối với đời sống trinh khiết… Phải có đời sống nội tâm sâu xa, không khác được. Giám mục Lustiger khi viết cho các chủng sinh đã nhấn mạnh: “Tôi sẽ không gọi một chủng sinh lên lãnh chức thánh, nếu thầy đó không đang khởi đầu sống với Thiên Chúa”. Khi Đức Nữ Đồng Trinh hiểu được câu: “Bà là người được Thiên Chúa yêu dấu” thì Mẹ chỉ còn cách trả lời: “Tôi không biết đến người nam và tôi không muốn biết chuyện đó”. Sự thinh lặng lúc bấy giờ, sự thinh lặng mà Mẹ đã sống, đó chính là sự thinh lặng của đức trinh khiết làm cho một tâm hồn dành hoàn toàn cuộc đời mình cho Thiên Chúa. Thinh lặng là linh hồn của Đức trinh khiết với ý nghĩa là, kẻ nào chấp nhận đi vào trong mầu nhiệm này thì cũng chấp nhận chỉ sống cho một mình Thiên Chúa: “Bà đẹp nhất trong các người phụ nữ”. Mẹ Maria đã hiểu điều đó và Mẹ đã tìm cách sống duy cho một mình Thiên Chúa.
Sự chờ đợi của Mẹ Maria không phải là điều mà chúng ta gọi là sự chờ đợi kêu van. Bởi vì trong Giáo hội Mẹ đảm nhiệm trật tự của lòng xót thương, nên Mẹ chờ đợi cùng với Giáo hội. Và người ta kêu xin Mẹ luôn, bởi vì phần hai của kinh Kính Mừng đọc: “Cầu cho chúng con là kẻ có tội”. Nhưng Mẹ Maria là một sự chờ đợi hoàn toàn, bởi vì những ước muốn của Mẹ trùng hợp với các ước muốn của Chúa Cha, đến nỗi các giáo phụ nói: ước muốn của Mẹ ở bên kia các ước muốn. Để đón nhận Lời của Thiên Chúa vào mọi ước vọng của mình, thinh lặng của Mẹ phải nhắm đến mức độ mà chúng ta khó có thể hiểu được. Sự thinh lặng của Mẹ Maria đạt đến cực độ lúc Mẹ nói với Thiên Chúa: “Xin xảy đến cho tôi như lời Ngài!”, nghĩa là “tôi xoá bỏ mọi lời nói của nhân loại để chỉ lấy lời Ngài làm ưu tiên”. Đó là đức tin, là sự ưu tiên thường xuyên cho một tư tưởng khác với tư tưởng của chúng ta. Bạn hãy suy nghĩ về Abraham khi Thiên Chúa bảo ông: “Ta cho ngươi một đứa con trai, ngươi hãy mang nó giết đi, làm lễ toàn thiêu cho Ta trên núi!” Nếu ông muốn làm theo ý mình, ông sẽ nói : “Tôi có quyền có một đứa con trai, bởi vì Ngài đã hứa cho tôi một dòng dõi qua đức trẻ đó. Thế mà giờ Ngài lại bảo tôi giết nó làm lễ toàn thiêu sao?!” Trong đời sống tu trì, một ngày nào đó, không biết khi nào, bạn sẽ phải làm một hành vi đức tin như ông Abraham: dâng hiến cái mà bạn cho là quí giá nhất. Theo bề ngoài thì ai chẳng muốn theo ý mình? Khi người ta nói với chúng ta: “Anh làm điều này nhé ?” Chúng ta liền nói: “ Nhưng tôi có quyền suy nghĩ riêng”. Phải, bạn có quyền suy nghĩ, nhưng bạn không còn ở trong đức tin nữa. Đức tin, đó là sự chấp nhận bị dẫn đi bởi một tư tưởng khác. Tuy nhiên, các bạn hãy thận trọng. Đôi khi người ta viện lý lẽ đức tin vì muốn người khác suy phục mình. Nhưng đức tin kông phải là phương tiện để có được bất cứ cái gì. Nó là một phương tiện để nên thánh, chứ không phải để sai khiến. Điều được đề nghị với Mẹ Maria, cũng chẳng thuộc về chủ nghĩa duy ý chí, hoặc anh hùng chủ nghĩa, nhưng nó thuộc về hành vi đức tin – “Làm sao điều đó có thể xảy ra được?” – Hãy giao phó cho Thiên Chúa vấn nạn đó, rồi Người sẽ can thiệp. Và đây là câu trả lời, thiên thần nói : “ Ta sẽ cho cô một dấu hiệu, và đúng hơn là hai dấu hiệu. Elisabeth chị họ của cô, là người son sẻ và già nua, sẽ sinh hạ một con trẻ, bởi vì không có gì mà Thiên Chúa không làm được”. Tôi tin rằng Mẹ Maria đã rất xúc động bởi câu trả lời này : không có gì mà Thiên Chúa không làm được. Trong cuộc sống, khi bắt đầu hiểu ra rằng Thiên Chúa làm được mọi sự, thì người ta có thể nói: “ Xin thực hiện nơi tôi theo như lời Ngài”. Đức tin của Mẹ Maria dựa trên nền tảng đó.
Con người càng lại gần Thiên Chúa, càng cảm thấy một vực thẳm tách biệt nó với Thiên Chúa. Thật thế, chính nhờ mỗi bờ của con sông, người ta bắc cầu. Ở bờ phía Thiên Chúa, cần phải xây những trụ cầu bằng bê tông :đó là niềm tin vào sức mạnh, lòng thương xót và tình yêu của Người. Ởû bờ phía con người, làm trụ cột là sự khiêm tốn, qua đó con người chấp nhận trở nên nghèo khó. Trên hai trụ đó người ta bắc một cây cầu, cây cầu của sự tin tưởng phó thác. Cần cầu nguyện nhiều với Mẹ Maria để xin Mẹ ơn tin tưởng phó thác. Ta không xin Chúa Kitô sự tin tưởng phó thác này. Ta xin Người: “Xin gia tăng đức tin cho con”. Thánh Luca cho thấy rõ, Mẹ Maria đã lớn lên trong đức tin suốt cuộc lữ hành trần thế của Mẹ. Công đồng cũng nói như thế: “Mẹ đã lớn lên trong đức tin”. “ Xin thực hiện nơi tôi theo lời Ngài !” Không chút sợ hãi nào, không một sự từ chối nào đến làm rối loạn công việc của ân sủng.
Đừng sợ! Khi nghe Thiên Chúa nói, con người có cái cám dỗ là sợ. Và đó không phải lỗi của chúng ta, tôi xin lập lại như thế. Khi ta bắt đầu hiểu ra điều đó, thì ta biết mình chẳng có tội gì trong cuộc sống. Chúng ta được tạo nên theo cách thức như thế đó, đến nỗi khi Thiên Chúa tiến lại gần, chúng ta cảm thấy sợ hãi. Chúng ta là vậy đó. Lúc bấy giờ Thiên Chúa nói với chúng ta ngay rằng: “ Đừng sợ !” Mỗi một khi Thiên Chúa đề nghị điều gì với ai, thì đó là những điều mà ta không thể hoàn thành trọn vẹn được. Người đề nghị những điều không thể làm được. Trong cuộc sống của tôi, Người luôn đề nghị với tôi những điều tôi khôngthể thực hiện được. Và cám dỗ đối với tôi, đó là rút lui mà nói : “Con không thể, con không có phương tiện”. Lúc ấy, Thiên Chúa sẽ cẩn thận báo cho chúng ta biết mỗi khi Người muốn đề nghị với chúng ta điều gì đó, bằng cách thông tin cho chúng ta. Ngài cho chúng ta nghe một lời khuyến dụ : “ Đừng sợ, Ta luôn ở với con”. “ Ta luôn ở với con”, đó là điều chắc chắn. “ Không có sự sợ hãi nào, không có sự rút lui nào có thể đến làm rối công việc của ân sủng, con tim Mẹ tràn đầy sự chờ đợi không thể diễn tả được, Mẹ dâng lên Thiên Chúa sự thinh lặng nơi Lời Thiên Chúa đang cư ngụ”.
Thinh lặng đầu tiên của Mẹ Maria, đó là thinh lặng của sự chờ đợi ; thinh lặng thứ hai là thinh lặng của sự chú ý. Đức Trinh Nữ chú ý Lời của Thiên Chúa đang nhập thể trong lòng Mẹ. Đối với chúng ta, đó cũng là điều quan trọng. Chúng ta phải hết sức hồi tâm để có thể ý thức rằng Thiên Chúa Ba Ngôi đang cư ngụ trong lòng chúng ta. Êlisabeth de la Trinité nói: “ Chúng ta phải được đặt vào trong sự thinh lặng của Thiên Chúa”. Đó không phải sự thinh lặng từ con người mà đến, nhưng là từ Thiên Chúa. Mẹ Maria quan tâm, để ý đến điều đang xảy ra trong Mẹ, Mẹ được đặt vào trong sự thinh lặng sâu xa hơn. Khi một bà mẹ đang chờ đợi một đứa con ra đời, bà có thể nói với các bạn cách dễ dàng những hy vọng lẫn thất vọng của bà, bà tưởng tượng ra đứa con của mình cách này hay cách khác, với khuôn mặt giống người cha hay giống bà. Còn Mẹ Maria thực sự không thể tưởng tượng Đứa Con đang ở trong lòng mình là thế nào, vì Mẹ biết ra rõ Cha của Đứa Bé là Cha trên trời, vì Thánh Thần đã làm cho Ngài đầu thai trong lòng Mẹ. Mẹ không thể nghĩ tưởng gì trong phút chốc, Mẹ được đặt vào trong sự thinh lặng hoàn toàn, Mẹ có thể thấy Chúa Cha đang bảo vệ Mẹ, săn sóc Mẹ, nhưng Mẹ không thể nghĩ ra điều gì khác nữa. Chính điều đó đòi Mẹ phải sống trong môt hành vi đức tin đặc biệt, một đức tin mà Zacharia không có. Hai bài Kinh Thánh nói về sự truyền tin cho Zacharia và cho Mẹ Maria đựơc xây trên cùng một kiểu. Sự thiếu niềm tin nơi Zacharia là biểu tượng cho lòng tin trong cựu ước. Zacharia không thể tin, còn Mẹ Maria đã bằng lòng tin và chấp thuận. Zacharia bị câm không thể nói được, trong khi đó Mẹ Đồng Trinh có thể nói lên điều mà người ta gọi là lời tuyên xưng đức tin của Mẹ trong bài Magnficat khi Mẹ nói: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa”, Thánh Luca đã xây dựng bài viết của mình tuyệt vời, ngài đưa vào câu sau đây của bà Êlisabeth, vợ ông Zacharia: “ Em thật có phúc vì em đã tin”, em đã có niềm tin và điều đó hiểu ngầm “ còn ông chồng tội nghiệp của chị lại không có được niềm tin như em, nên ông đã câm”, câm, tức là không thể tuyên xưng niềm tin của mình. Theo Urs Von Balthasar, thì tất cả hành vi đức tin trong Giáo hội có gốc rễ nơi hành vi đức tin của Mẹ Maria, nơi lời tuyên xưng của Mẹ.
Trong thời gian đó, Mẹ Maria nuôi Ngôi Lời Thiên Chúa bằng chính bản thể của Mẹ, Mẹ cho Lời đó một cách diễn tả, bằng cách hiến cho Lời đó một thân xác. Ôi mầu nhiệm làm sao! Khi ta nghĩ đến lời nói của Chúa Kitô, chẳng hạn, trong thư gửi tín hữu Do thái chương 10 câu 5: “Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể” Đó là bí tích thánh thể; có một mối giây liên lạc rất sâu xa giữa ba mầu nhiệm : Nhập Thể, Giáng Sinh và Thánh Thể. Đó chính là mầu nhiệm của Chúa Thánh Thần, và đây là cái nhìn của các Giáo Phụ kể từ thời thánh Jean Damascène, khi ngài nói: “ Bạn tự nhủ làm sao bánh và rượu trở nên mình và máu Chúa Giêsu được ! Nầy ! Tôi xin hỏi lại bạn : Làm sao Mình Chúa Kitô lại được tạo nên trong lòng của Đức Maria ?” – “Chúa Thánh Thần đã ngự xuống trên Mẹ và rồi Người đã thực hiện nơi Mẹ điều mà Người sẽ làm nơi Phép Thánh Thể”. Có mối liên lạc, bạn cũng như tôi biết rõ điều đó, mối tương quan này đã được Công Đồng chấp nhận: Kinh cầu xin Chúa Thánh Thần trong mỗi kinh nguyện thánh thể cho thấy điều đó. Bấy giờ Ngài đã nắn nên cho con thân xác. Mẹ Maria đã cho Chúa Kitô thân xác này, một thân xác được tạo nên trong sự thinh lặng. Suy nghĩ đến chính thân xác của Chúa Kitô là điều rất quan trọng khi ta nghĩ đến Bí Tích Thánh Thể. Cần phải trở đi trở lại với thần học về thân xác, bởi lẽ thân xác chúng ta là cách thức duy nhất làm cho chúng ta hiện hữu trong thế giới này. Thân xác chúng ta rất quan trọng, và bí Tích Thánh Thể đụng chạm đến thân xác chúng ta.
Bây giờ chúng ta đi đến sự thinh lặng sau cùng, tới lời sau cùng, ở nhà tiệc ly cùng với các Tông Đồ. Nếu các bạn đã đọc Thông Điệp Redemptor Hominis ( Đấng cứu chuộc Con Người ) của Đức Thánh Cha, thì có lẽ các bạn đã thấy là Ngài nhấn mạnh về sự hiện diện của Đức Maria ở nhà tiệc ly như là một sự nâng đỡ cho sự kiên trì và tin tưởng của các Tông đồng trong lời cầu nguyện. Để có được ơn kiên trì trong cầu nguyện các bạn phải chạy đến với Mẹ, bởi vì Mẹ có ơn nâng đỡ những tâm hồn nản chí. Chúng ta là những người hay đổi ý, thất thường ! Sau lần cầu nguyện với các Tông đồ ở nhà tiệc ly, Mẹ Maria không còn xuất hiện, người ta nói rất ít về Mẹ, một sự thinh lặng bao trùm Mẹ. Chúng ta biết rằng thánh Gioan đã đưa Mẹ về nhà, nhưng chúng ta không biết thánh nhân đi đâu. Mẹ ở đâu, điều đó không quan trọng; điều quan trọng ở đây, đó là sự thinh lặng của Mẹ, một sự thinh lặng bao trùm lên Mẹ. Trong những viễn tượng đó, Mẹ Maria luôn là Mẹ của Chúa Giêsu, mẹ luôn để ý đến sự tăng trưởng của Giáo Hội và bao bọc chở che bằng sự ân cần của một người mẹ. Ta hiểu rằng Công đồng đã gọi Mẹ là Mẹ của Giáo Hội. Mẹ phải chăm sóc thân thể Con của Mẹ. Người ta nói rất ít về Mẹ: đó là một sự thinh lặng an bình sau một công việc đã hoàn thành. Ởû đồi Can-vê, sau cái chết của Chúa Giêsu, sự thinh lặng của Mẹ có tính cách đau đớn. Bây giờ sự thinh lặng của Mẹ là một thinh lặng vui tươi, hớn hở. Mẹ suy ngắm mọi chuyện trong trái tim Mẹ, Mẹ đã chấp nhận đi vào trong thế giới của Thiên Chúa và Mẹ đã thấy được sự hiện hữu của mình như là một công trình của Thiên Chúa. Mẹ thấy bàn tay của Thiên Chúa ngang qua tất cả những gì Mẹ đã làm. Các bạn phải cầu nguyện với Mẹ nhiều để Mẹ dạy cho các bạn đọc ra được hành động của Thiên Chúa trong đời sống của các bạn.
Đàng khác, chắc chắn lúc bấy giờ Mẹ đã kể với thánh Luca và những người khác về cách thức mà Thiên Chúa đã hành động nơi Mẹ. Tôi tin là Chúa Thánh Thần phải được ban cho Giáo Hội, và các Tông đồ phải có kinh nghiệm về Chúa Kitô phục sinh để mẹ có thể giải thích cho họ mầu nhiệm về sự khiết trinh vẹn tuyền của Me, bởi đây không phải là chuyện hoàn toàn thông thường. Như Đức Kitô đã được cho sống lại nhờ quyền năng Thiên Chúa – Thánh Phaolô nói : “Anh em đã tin vào quyền năng của Thiên Chúa, Đấng đã cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết”_ thì, cũng thế Thần Khí đã ngự xuống trên Mẹ và đã bao trùm Mẹ dưới bóng của Người, và quyền năng của Thiên Chúa đã rợp bóng trên Mẹ. Cha Georges nói: “Với tư cách cá nhân, tôi thấy có sự tương quan lạ lùng giữa sự thụ thai trinh khiết và lễ Ngũ Tuần; không phải sao, chính trong bầu khí này, lúc các Tông đồ vừa mới nhận Thần Khí của Chúa Giêsu, mà Mẹ Maria đã nói về sự thụ thai trinh khiết của mình, và Mẹ đã nói rằng Chúa Giêsu sinh ra do bởi Chúa Thánh Thần?” Mẹ Maria không nói lúc Chúa Giêsu còn sống. Lúc đó Chúa Giêsu nói. Nhưng sau này, Mẹ đã nói và tất cả những điều Mẹ nói, đó là những điều vừa nói trên đây. Điều mẹ muốn cho biết, đó là Thiên Chúa muốn liên đới với thế giới. Chính vì thế Mẹ Maria là kiểu mẫu gắn bó với Thiên Chúa. Mẹ đã sống điều này trong đời sống của Mẹ.
Với mầu nhiệm phục sinh của Chúa Kitô, có một cái gì đó đã xẩy ra trong đời sống của Mẹ,ï bởi vì các Tông đồ đã được biến đổi do Chúa Thánh Thần đã được đổ tràn xuống. Mẹ Maria đã được tràn đầy ân sủng nhưng tôi nghĩ rằng lúc bấy giờ, trong ân sủng này, Mẹ đã có được vinh quang rồi. Thánh Phaolô nói trong thư gửi Tín hữu Do Thái: “Họ hết thảy đã được Thiên Chúa chứng giám nhờ bởi đức tin, thế mà họ đã không được lãnh lấy điều đã hứa là sự sống lại: Thiên Chúa vì dự liệu cho ta một cái gì hoàn hảo hơn, thì đã không để họ đạt thấu thành toàn mà lại không có ta”. Phải, Mẹ Maria, cũng như cácTông đồ, đã là một sự Phục sinh sống động; Mẹ đã sống đúng từng chữ điều mà thánh Phaolô nói, Mẹ đã mang vinh quang của Đấng Phục Sinh trong những bình sành, và đó là điều rất quan trọng. Bossuet thường tự nhủ: “Đức Nữ Trinh đã làm thế nào để có thể sống với một sức nặng vinh quang như thế ?” Vinh quang của Thiên Chúa trong Đức Giêsu chết và sống lại, trong Mẹ Maria và trong mỗi người chúng ta, dường như bị che khuất.
Trong cựu ước, vinh quang làm cho người ta sợ, không muốn thấy ngọn lửa vĩ đại đóù, vì họ không muốn chết. Còn trong Chúa Kitô, vinh quang hình như bị thu lại để trở nên khiêm tốn, dịu dàng và đầy tình thương xót. Tình yêu thương là một tên khác của vinh quang, vinh quang đó đã có nơi Chúa Kitô trong khi Người sống tại thế, nhưng người ta không thấy, ngoại trừ lúc Ngài biến hình. Chúng ta nghe lời Người: “Hãy đến với Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng”. Vinh quang đó cũng có nơi Mẹ Maria. Tôi tin rằng người ta có thể nói về Mẹ Maria vào lúc cuối đời rằng, Mẹ được vinh quang chiếm đoạt. Mẹ như con người mới mà Chúa Giêsu và thánh Phaolô nói tới: hoàn toàn khiêm tốn, dịu hiền, với một tình yêu đặc biệt đối với người tội lỗi. Bên ngoài, Mẹ Maria cũng ở trong sự thinh lặng sâu thẳm nhất. Điều mời gọi chúng ta chạy đến với Mẹ, vì Mẹ là người nữ hoàn toàn để cho Chúa Thánh Thần xâm nhập và uốn nắn. Mẹ là người nữ của Chúa Thánh Thần. Các thánh luôn cảm nhận được mầu nhiệm đó. Thánh Grignion de Montfort nói một câu rất hay: “Khi Chúa Thánh Thần thấy Mẹ Maria ở trong một tâm hồn nào đó, thì Ngài bay tới đó”. Giữa Mẹ và Chúa Thánh Thần có một tương quan thân thiết bởi vì Mẹ hoàn toàn để cho Chúa Thánh Thần chiếm đoạt. Mẹ luôn để cho Người hướng dẫn.
Sự thánh thiện là gì, nếu không phải là để cho Chúa Thánh Thần hướng dẫn? Hãy loại bỏ những gì xấu xa và giữ lại những gì tốt lành! Người ta càng tiến lên trong đời sống thiêng liêng, thì càng thấy mình có rất ít điểm chuẩn. Có những lệnh truyền của Thiên Chúa và của Giáo hội, và người ta biết rõ điều gì phải làm và điều gì phải tránh. Nhưng trong chi tiết của cuộc sống thường ngày, từng giây từng phút, thì chúng ta biết rất ít. Chính vì thế, kinh nghiệm cho thấy, chúng ta cần phải chấp nhận để được hướng dẫn, bằng cách trung thành với những nhắc nhở của Thần Khí. Chúa Thánh Thần nhắc nhởû hết sức tế nhị. Tuy nhiên phải thêm rằng Người đang hướng dẫn và ban cho chúng ta cái cảm nghiệm mà Mẹ Maria đã có: Thần Khí đang hướng dẫn, cái cảm nghiệm làm cho Mẹ cảm thấy hành động của Người trong đời sống của Mẹ. Mẹ sẽ mang đến cho chúng ta ơn mà thánh Phaolô đã nói khi đề cập đến “sự tuân phục của đức tin”(x Rm 1,5 & 16, 26). Mẹ Maria sẽ làm cho các bạn trở thành những con người vâng phục Lời Thiên Chúa, tuân phục Chúa Thánh Thần.
Chúng ta biết rất ít về cái chết của Mẹ. Giáo hội không muốn đi sâu vào chuyện đó. Nhưng điều mà chúng ta biết, đó là tất cả những ai là tôi tớ của Mẹ, đã yêu mến Mẹ, như cha Kolbe, thánh nữ Bernadette, thánh Catherine Labouré và tất cả các thánh, thì vào cuối đời, họ đều có kinh nghiệm về sự hiện diện của Mẹ. Thánh Alphonse de Liguori chịu dằn vặt suốt cuộc đời, bởi sự lo lắng quá về các hành vi của mình, ngài sống tới tám mươi hai tuổi và chịu rất nhiều đau khổ. Vào những ngày cuối đời, ngài tự hỏi không biết làm thế nào để được chết bình an. Và rồi ngài đã cảm nhận được một sự bình an, một thứ bình an không thể tưởng nổi. Ngài rất yêu mến Đức Nữ Trinh, nên Mẹ luôn ở gần ngài. Chúng ta dám chắc rằng khi chúng ta cầu xin với Mẹ, thì Mẹ có đó, bên cạnh chúng ta. Đừng tìm kiếm an ủi nơi nào hoặc ánh sáng nào khác ngoài những tiếng rên siết của Chúa Thánh Thần. Phải luôn luôn kêu van Người trong mọi hoàn cảnh. Và chính Mẹ Maria dẫn chúng ta vào con đường đó.
III. ƠN PHÓ THÁC
1. MỘT CON NGƯỜI ĐÃ ĐƯỢC BIẾN ĐỔI
Trong thời gian tôi ở bệnh viện, từ ngày 25 tháng 5 đến ngày 5 tháng 6 năm 1990, vào thứ sáu tháng 6, tôi đã nhận được một cú điện thoại xin tôi đi ban các bí tích cho một người bạn tên là Ferdinand Malevache. Anh ta muốn gặp tôi trước ngày lễ Phục Sinh, nhưng chỉ sau này tôi mới có thể hiểu được sự lo lắng của anh. Anh mắc bệnh ung thư và đang ở giai đoạn cuối. Tôi xuất viện ngày 5 tháng 6 và đã gọi điện thoại cho anh, như tôi vẫn làm mỗi ngày và hứa với anh sẽ thăm anh ngay khi tôi trở về nhà. Thứ ba ngày mùng 5 vào buổi chiều, tôi đến thăm anh. Anh xin tôi giải tội cho anh và tôi hứa sẽ đến dâng thánh lễ và ban bí tích bệnh nhân cho anh vào thứ tư ngày mùng 6 lúc 15 giờ.
Có khoảng 12 người đứng xung quanh anh. Trong đó có cô em dâu và người bạn của anh tên là Dominique Destomber, hai người này tận tình săn sóc anh trong thời gian anh đau ốm. Bên ngoài trông anh có vẻ không có gì đau đớn lắm. Tôi đã dâng thánh lễ cầu nguyện cho bệnh nhân. Tôi chọn một đoạn trích từ thư của thánh Gia-cô- bê cho bài đọc một. Sau Tin Mừng tôi cử hành bí tích sức dầu bệnh nhân. Sau đó, anh ta rước Mình và Máu Chúa Ki-tô.
Chúng tôi cám ơn Chúa một chút, rồi cô em dâu của anh nói với tôi: “Chính lúc này mà con nhận ra một con người được biến đổi”. Cô ta nhớ lại: thật khó khăn biết bao khi phải giải thích biến cố Biến Hình cho các em học giáo lý, nhưng lúc nhìn Ferdinand sau khi rước lễ, cô ta mới thấy và hiểu ra ý nghĩa.
Khi ấy tôi đã nghiệm ra thế nào là một Ki-tô hữu sống cuộc khổ nạn trong lúc đau đớn, nhưng lại được nâng đỡ bởi vinh quang và người đó để cho niềm vui phục sinh và vinh quang của Đấng Phục Sinh chiếu toả trên khuôn mặt của mình. Anh ta cũng nói là anh cảm thấy thật hạnh phúc sau thánh lễ tạ ơn này và đó là một trong những ngày đẹp nhất trong cuộc đời của anh.
Tôi đã ôm hôn và từ giã anh, nhưng tôi lại sợ anh chết trong những đau đớn khủng khiếp, đặc biệt là chứng xuất huyết. Tôi cho anh một cỗ tràng hạt và ra về. Tôi đã dành một chút thì giờ buổi chiều để đọc kinh lần hạt, cầu xin Đức Nữ Đồng Trinh luôn ở bên cạnh anh trong giờ sau hết và làm dịu cơn đau của anh. Tôi rất ít được nhậm lời khi cầu nguyện để cho ai đó không chết.
Đúng như tôi nghĩ, sau khi lên cơn đau một lúc, anh được bác sĩ tới thăm và cơn đau tạm dịu xuống. Chiều đó anh đã ra đi trong bình an. Tôi đã không tin điều đó khi Gérard Sandevoir gọi điện báo cho tôi vào sáng thứ năm. Quả thực, anh đã chờ đợi thánh lễ Tạ Ơn để đi vào trong niềm vui trên trời. Đứng trước mộ anh, tôi chỉ có thể nói lên một lời duy nhất, đó là: Ferdinand đã đau đớn nhiều, nhưng anh đã chết trong trạng thái được biến đổi, và niềm vui chiếu toả trên khuôn mặt anh đã là một sự tiên hưởng niềm vui trên trời. Thật là cao cả, sức mạnh của lời cầu nguyện và sự hiệp thông giữa các tâm hồn.
2.MỘT NỖI ĐAU VUI MỪNG TRONG NƯỚC MẮT.
Điều tôi sắp nói đây tiếp theo phần trước, nhưng đây hoàn toàn là điều không thể thấy trước được. Ngoại trừ khi tình yêu của Thiên Chúa chạm đến trái tim khiến tôi nhận ra sự vô ơn của mình, thì tôi không có tài đổ nước mắt ra khóc lóc tội lỗi mình. Nhưng ngày an táng của Ferdinand lại là một chuyện khác. Tôi xin nói ngay là tôi không cho điều đó thuộc về tài khóc lóc, bởi vì bên trong có nhiều yếu tố tâm lý, đó là sự lo lắng đang đè nặng bởi những kết quả phân tích sau khi tôi mổ. Nhưng tôi tin là có cái gì đó thiêng liêng, tôi tin chắc điều đó.
Tôi rất là bình an khi đi đến nhà thờ Beaulieu. Tôi không cảm thấy đau nhức gì về thể lý. Cũng không thể nói tôi buồn vì cái chết của Ferdinand, tôi đã nhận ra việc tay Chúa làm. Tôi luôn ở trong bình an. Vậy mà khi bắt đầu thánh lễ tự nhiên tôi khóc ròng, không thể nói và hát được nữa. Tôi không nói đó là những dòng nước chảy từ mắt, nhưng từ chỗ sâu xa của lòng tôi trào lên và tràn xuống trên khuôn mặt, tôi không thể ngăn lại được. Thường thường khi cần thiết, tôi chạy lại với Đức Nữ Trinh bằng kinh Mân Côi, nhưng lúc này tôi đành bất lực. Tôi cảm thấy xấu hổ trước mặt giáo dân, nhưng phải chấp nhận vì không thể làm gì hơn.
Sự kiện đó đã kéo dài cho đến cuối thánh lễ, nhưng khi ra ngoài nghĩa trang tôi đã có thể nói được. Có nên thử giải thích hiện tượng đó xem thế nào không? Tôi có cảm tưởng là toàn bộ sự êm dịu tỏa rạng trên khuôn mặt của Ferdinand ngày tôi dâng thánh lễ cho anh, đã nhấn chìm tất cả sự đau khổ của căn bệnh, và tim tôi đau như thể nó muốn tan chảy ra. Tôi không thể giải thích cách khác về sự bình an và êm dịu của những giọt nước mắt này trong tâm hồn tôi cũng như trong thân xác và trên khuôn mặt tôi.
Dù không biết nguồn gốc, nhưng ít ra tôi có thể nói tới cái hiệu quả của những dòng nước mắt đó nơi tôi. Bất ngờ tôi nẩy ra một so sánh: cái vắng lặng ngày hôm sau của một cơn mưa lớn; cái vắng lặng sau cơn bão, sau cơn giông tố, hoặc sau một cơn gió dữ dội; khi đó người ta nói đó là sự yên ắng. Ở đây không có cơn giông hay cơn bão nào, nhưng có trận mưa êm dịu và thấm nhuần mà hôm nay vẫn còn. Tôi có cảm tưởng mình đã được rửa sạch từ bên trong lẫn ngoài khỏi mọi buồn chán, sợ hãi và lo lắng. Bình an còn kéo dài. Tôi như một đứa bé vừa mới khóc, nhưng mọi đau khổ đã được quét sạch. Nói gì sau đó? Nếu không phải là câm lặng và tạ ơn.
3.TÔI CHỈ CÒN CỖ TRÀNG HẠT NỮA THÔI.
Trước khi thử đưa mầu nhiệm ơn gọi của tôi lại gần với sự cầu nguyện, tôi muốn nói cách đơn giản điều còn lại nơi tôi hôm nay. Tôi đã cầu nguyện nhiều và nhất là kêu van nhiều, tôi cũng đã nguyện ngắm, sống cách đơn sơ dưới cái nhìn của Chúa Cha và của Đức Ki-tô, thổ lộ lòng tôi với các Ngài, bằng lời nói hay im lặng.
Sau những thử thách, nhất là thử thách về sức khoẻ, chỉ còn lời cầu nguyện đang “nói” trong tâm hồn tôi. Không làm cho tôi mệt mỏi và nhất là có thể kéo dài, ấy là lần hạt. Đối với tôi nó thay thế cho tất cả những lời cầu nguyện khác và tạo nên một khúc nhạc căn bản, trên đó tôi cử hành thánh lễ và đọc kinh thần vụ.
Không biết tôi có suy gẫm các mầu nhiệm không, hoặc ngay cả có đọc các mầu nhiệm đó lên và cầu nguyện với các mầu nhiệm đó trong giây lát trước lúc lần hạt không. Điều hiển nhiên đối với tôi, đó là khi đọc những lời “Kính mừng Maria” mà thiên thần Gabriel và bà Elisabeth đã thốt ra, tức thì tôi ở trong lãnh vực cầu nguyện, trong nguyện ngắm được nói đến trên kia và đó là tất cả những gì tôi có thể đọc, ngay cả khi tôi nếm được cách đặc biệt hơn phần thứ hai của kinh: “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con, là kẻ có tôi khi nay và trong giờ lâm tử…”.
Khi đó tôi chỉ suy nghĩ một điều, đó là cố thực hiện từng chữ lời sau đây của thánh Phaolô: Tôi không biết cầu nguyện thế nào cho phải, nhưng có ai khác cầu nguyện cho tôi và trong tôi, và lời cầu nguyện này rất hoàn hảo bởi lẽ nó móc nối với lời cầu nguyện mà Thiên Chúa mong mỏi. Để diễn tả những điều đó theo một cách thức khác với cách của thánh Phao-lô, tôi tin rằng ở nơi sâu thẳm nhất của tâm hồn, tôi không xen vào, Chúa Thánh Thần đối thoại với tâm thần tôi và nói với Chúa Cha bằng những lời mầu nhiệm…, nhưng tất cả những gì tôi nói đó chỉ là chuyện hoàn toàn mang tính ước chừng. Tôi biết rõ lời cầu nguyện này là lời cầu nguyện của Chúa Thánh Thần, nhưng cảm giác duy nhất mà tôi có được, đó là lời cầu nguyện này do Mẹ Maria khởi xướng. Ngay cả đôi khi tôi có cảm tưởng như không cầu nguyện với Chúa Cha hoặc với Chúa Ki-tô, tôi cứ để Mẹ Đồng Trinh chọn lời cầu nguyện để tôi cầu nguyện với Một trong Ba Ngôi. Với tôi, điều thiết yếu là cầu nguyện. Đó là vấn đề sống chết, thất vọng hay bình an, chán chường hay vui tươi. Thật sự hôm nay Mẹ Maria trở nên tất cả cho tôi.
IV. LỜI NGUYỆN DÂNG CHÚA THÁNH THẦN.
Lạy Cha, nhân danh Chúa Giê-su
Xin ban cho con Thần Khí của Cha.
Lạy Chúa Ba Ngôi chí thánh, chúng con tuyên xưng quyền năng Chúa đã làm cho Đức Giê-su sống lại từ cõi chết và chúng con tin rằng Thần Khí được đổ xuống dạt dào trên Mẹ Maria và các Tông Đồ, khi các Ngài hội họp để cầu nguyện ở nhà tiệc ly. Chúng con ca ngợi Chúa vì sức mạnh từ trên đã đổ xuống các môn đệ và đã biến các ngài thành chứng nhân của Chúa Ki-tô phục sinh, nhờ ân huệ và đặc sủng mà Chúa ban cho Giáo Hội.
Chúng con cũng tuyên xưng rằng khi nhận phép rửa, chúng con đã thuộc về Chúa nhờ sức mạnh của chính Thần Khí, Đấng đến cư ngụ trong chúng con và đồng hoá chúng con với Đức Ki-tô hằng sống, làm cho chúng con trở thành những nghĩa tử của Chúa Cha và thành đền thờ của Chúa Ba Ngôi chí thánh.
Chúng con cũng thú nhận là Thần Khí đó đang bị cầm giữ trong những con tim chai đá của chúng con, và Người không thể làm cho sức mạnh của danh Chúa Giêsu phục sinh lan toả trong đời sống chúng con và trong Giáo Hội, qua các dấu chỉ sáng ngời.
Chính vì thế mà chúng con kêu nài Chúa Giê-su đang ở bên hữu Cha, để Người xin Cha, nhân danh Người, phái Thần Khí xuống trên chúng con. Xin Người soi sáng cho tâm trí chúng con, giúp chúng con khám phá ra ý của Cha, xin Người ban cho chúng con sức mạnh để thực hiện ý Cha, và xin Người đốt lên trong tâm hồn chúng con ngọn lửa của tình yêu Người.
Khi Chúa Thánh Thần thánh hiến chúng con trong chân lý và sự thánh thiện, chúng con muốn dâng lên Người toàn bộ con người chúng con và trao hiến chính mình chúng con cho hành động sáng tạo và thánh hoá của Người. Chúng con cầu xin Đức Nữ Trinh rất tinh tuyền và thánh thiện ban cho chúng con ơn biết vâng theo những linh hứng của Chúa Thánh Thần.
Chúng con không biết cầu nguyện thế nào cho phải trong khi Chúa Giêsu dạy chúng con cầu nguyện không ngừng, vì thế chúng con xin Chúa Thánh Thần đến cầu nguyện trong chúng con bằng những tiếng rên xiết khôn tả. Xin Người làm trào dâng lên từ nơi sâu thẳm của con tim chúng con lời cầu nguyện, xin Người chữa lành những vết thương của con tim chúng con và dẫn chúng con vào nơi sâu thẳm của tình yêu Ba Ngôi.
Sau cùng chúng con xin Chúa Thánh Thần đổ tràn xuống trên chúng con sức mạnh của Đấng Phục Sinh để các việc chữa lành, các dấu lạ và những điều kỳ diệu xảy ra nhờ Danh Đức Giê-su, và để chúng con có thể loan báo một cách chắc chắn Lời của Thiên Chúa.
Amen.
V. DI CHÚC
“Xin cầu nguyện nhiều cho tôi
để tôi trở thành lời cầu nguyện
trước Thánh Nhan Chúa.
Tôi muốn diễn tả ước mong ấy
theo hình thức một bài văn dưới đây.
Nên khi chết tôi xin để lại di chúc này.”
(Trích từ một lá thư)
Lạy Chúa, Chúa đã thăm dò và đã biết con,
đặt con trong lòng bàn tay Chúa.
Chúa đã tạo cho con đôi thận
đã dệt nên con trong bụng mẹ.
Chúa biết lòng con
và mỗi sáng gọi con bằng tên của con.
Con tạ ơn Chúa vì biết bao điều kỳ diệu:
Con thật diệu kỳ, công việc Chúa thật tuyệt vời.
Chúa biết rõ con chỉ là Lời Nguyện trước Nhan Ngài.
Lạy Cha, này con đây, con xin làm theo ý Cha
Ước gì tất cả hành động trong ngày hôm nay
Được xem như là một lời nguyện
Xin Thần Khí của Cha ban cho con
Ơn cầu nguyện của Chúa Giê-su.
Ôi, lạy Thiên Chúa,
Xin Ngài dò xét lòng con,
Xin Ngài biết rõ con tim sâu thẳm của con.
Xin Ngài thăm dò lòng con,
Xin biết rõ các nỗi lo lắng của con.
Xin giữ lòng con khỏi tính kiêu ngạo,
Xin đừng trao con cho đam mê của xác thịt,
Xin Ngài trông xem, để đường con đi không bất hạnh
Xin dẫn con đi trên đường sự sống
Con chỉ là Lời Nguyện trước Nhan Ngài.
Amen.
(viết theo thánh vịnh 138)
Noel 1978
MỤC LỤC
Dẫn nhập…………………………………………………...…….2
Một lộ trình………………………………………………………4
Thời kỳ khó khăn…………………………………………..……5
Những vết thương……………………………………..…………6
Lời cầu nguyện chữa lành…………………………………....…7
Ai đã dạy tôi cầu nguyện? …………………………….………10
1.Ngày đó Chúa Giêsu cầu nguyện ở một nơi thanh vắng……...13
*khi Người cầu nguyện xong………………………………...…16
*Người hằng sống để cầu thay nguyện giúp………………...…20
*lời cầu nguyện của Chúa Thánh Thần ………………………26
2.Maria suy đi nghĩ lại trong lòng……………………………...…33
*Lời cầu nguyện của đức maria……………………..…………36
*Thuộc trọn vào lời cầu nguyện của mẹ maria…………..……42
3.Đêm ngày họ kêu lên cùng Thiên Chúa ………………………46
*Chúng ta cầu nguyện đêm ngày ……………………………...48
*“…cùng một thần khí, kẻ thì được ban cho ơn đức tin…”……56
*“Người luôn nhậm lời, khi chúng ta xin điều hợp ý Người” …62
* “con luôn ơ ûvới cha” ……………………………………….…66
*“Một Thiên Chúa ẩn mình” …………………………….……71
Phụ Chương……………………………………….……………77
I. Ôi!Ước chi Ngài xé trời mà xuống………………….…………77
II. Suỵt! Đừng ồn ào………………………………………………96
III. Ơn phó thác…………………………………………………...112
1.Một con người đã được biến đổi……………………………112
2.Một nỗi đau vui mừng trong nước mắt………………..……114
3.Tôi chỉ còn cỗ tràng hạt nữa thôi……………..……………116
IV.Lời nguyện dâng Chúa Thánh Thần…………………………117
V. Di chúc…………………………………………………...……119
Thời kỳ sôi động ấy kết thúc nhờ câu: “Ta sẽ chữa ngươi bằng cầu nguyện và chỉ duy bằng cầu nguyện mà thôi”. Tôi không bày tỏ ý kiến của tôi về nguồn gốc của câu này, những lời đã gợi lên trong tôi vào lúc mà tôi rất ít nghĩ tới. Điều chắc chắn đó là sự tiến triển dần dần màø có thể còn rất nhanh là đàng khác. Tôi đã đi vào trong bầu khí đầy yên tĩnh và bình an hơn nhiều. Nhưng nếu những thử thách về luân lý và tinh thần chấm dứt, thì tôi không thể tưởng tượng được những đau đớn khủng khiếp về mặt thể lý đang xảy đến với tôi. Thật là thú vị, vài giờ trước khi viết điều này, một nữ tu đến nói với tôi: “Ai viết về cầu nguyện phải cầu nguyện nhiều và phải chịu đau khổ nhiều”. Điều đó liên quan thật chính xác với một lời của thánh Rosa de Lima nói với bác sĩ của ngài là Castillô: “Đặc sủng càng nhiều bao nhiêu thì thập giá càng lớn bấy nhiêu”. Tôi không tin rằng tôi có những đặc sủng, nhưng đối với những thập giá, thì tôi nghĩ tôi có thể đếm được.
Những vết thương
Ở đây tôi không muốn đi vào chi tiết, nhưng việc cắt bỏ một lá phổi và những lúc chiếu quang tuyến tiếp theo đó, đã làm tôi đau đớn rất nhiều. Tôi hiểu ra lời sau đây của thánh nữ Tê-rê-sa thành Lisieux: “Đau đớn sẽ qua đi, nhưng hậu quả vẫn còn đó”. Không kể đến nỗi chán chường tinh thần của kẻ mắc bệnh ung thư và luôn cảm thấy trên đầu mình là lưỡi gươm của Damoclès. Có một lời đã nâng đỡ tôi suốt những tháng thử thách, đó là lời của Mẹ Maria-Renyse, cựu Bề Trên tổng quyền của dòng Đức Mẹ Lên Trời. Sau nhiều tháng sống ở C.H.U. de Bordeaux, biết mình mắc bệnh bạch huyết, Mẹ đã sống trong 4 hoặc 5 năm với căn bệnh đó, và Mẹ đã ghi trong cuốn sổ tay câu sau đây: “Người ta không chết vì căn bệnh, nhưng người ta chết vì Thiên Chúa bảo: “Giờ ngươi đã điểm, hãy đến!”. Thánh Tê-rê-sa thành Lisieux cũng nói một lời tương tự như thế.
Liệu tôi có cần nói rằng lúc bấy giờ tôi đã khẩn nài thế nào không? Vả lại, lời khẩn nài đã làm thành vết thương trong tôi. Mỗi khi người ta khẩn nài trong chân lý, người ta không thể quên được vết thương đó, ngay cả khi tiếng kêu dịu xuống, những lúc được bình an hơn. Điều đó trở thành trong con người chúng ta như một bản tính thứ hai. Hơn nữa, tiếng khẩn nài trở thành bản tính của bạn bởi vì hữu thể bạn chính là sự cầu nguyện. Điều đó chắc chắn phải trở thành tiếng khẩn nài thường xuyên của các thánh, tiếng khẩn nài đã vượt qua bức tường âm thanh, để đi vào trong tốc độ vô tận của vũ điệu nơi đời sống Ba Ngôi Thiên Chúa. Dầu vậy, tôi muốn làm một ghi chú mà tôi cho là căn bản: không có một sự cân xứng nào giữa hai lời khẩn nài sau đây: một là lời khẩn nài được kích thích do một tình cảnh quá khốn đốn của con người, dù là về mặt thể lý hoặc tinh thần, nó vọt lên từ con tim chúng ta và có thể là thường xuyên; hai là lời khẩn nài được đốt lên do Chúa Thánh Thần vào lúc mà chúng ta không nghĩ tới chút nào. Khi đó chúng ta vượt qua từ tốc độ thứ ba sang tốc độ thứ tư. Khi đó chúng ta sống với một lời khẩn nài mà con người không thể diễn tả nổi, bởi vì một lời cầu nguyện như thế không nảy lên từ mặt đất, nhưng phát xuất từ trời cao, ít xảy ra và không lệ thuộc chúng ta. Đó là một ơn ban của Thiên Chúa. Người ta không thể quên ơn ấy vì nó để lại trong con tim một vết thương, một vết bỏng, một nỗi nhớ nhung vô phương cứu chữa, và khi ơn ấy thiếu vắng, thì người ta lại rơi vào lời cầu xin nhân loại thường tình như mọi người, một tác giả thế kỷ thứ IV đã nói thế. Người ta chỉ có thể xin cho được lời khẩn nài đó, khi ước ao khao khát nó. Vì, làm nẩy sinh trong con tim chúng ta lời khẩn nài của Chúa Thánh Thần, điều đó không thuộc quyền chúng ta.
Lời cầu nguyện chữa lành
Sau cuộc giải phẫu ấy, cuộc sống vẫn tiếp tục, nhưng tôi đã phải từ bỏ nhiều hoạt động, vì sức khỏe suy giảm rõ ràng, và tôi không thể trải qua một ngày mà không đau đớn cách này hay cách khác, nhưng đồng thời có chút quen thuộc gì đó với mọi sự, kể cả đau đớn.
Thật hạnh phúc khi có sự cầu nguyện. Thực tế tôi chỉ còn làm được điều đó nữa mà thôi. Chính cầu nguyện đã nâng đỡ và tạo nên toàn bộ sức mạnh của tôi.
Nhiều lần tôi đã tự hỏi sao Chúa không gọi tôi về với Người. Nhưng tôi đã giảng tĩnh tâm hai lần, và mỗi lần Thiên Chúa đã ban cho tôi sức mạnh cần thiết, đồng thời tỏ cho tôi cách rõ ràng là Người còn muốn tôi tiếp tục giảng dạy. Tôi đã nhận được ánh sáng này cách đây một tháng vào lần tĩnh tâm sau cùng của tôi.
Rồi đã xẩy ra lần giải phẫu thứ hai, ngày 25 tháng 5 vừa qua. Người ta đã phát hiện ra một cục bướu thuộc tuyến giáp trạng trước khi mổ phổi. Nhưng điều đó không làm tôi khó chịu như người ta nghĩ. Một ngày đẹp trời, cục bướu đó đã đụng đến những sợi thanh quản, tôi không nói được nữa, lúc bấy giờ người ta mới quyết định giải phẫu. Mọi sự đã xẩy ra tốt đẹp dù tôi có sợ sệt. Thật thế, việc phẫu thuật đã thành công, nhưng các nhân viên phòng thí nghiệm tế nhị cho tôi biết những phân tích thiết yếu đã phát hiện ra một vài tế bào không nhận dạng được. Bác sĩ giải phẫu đề nghị tôi chịu một cuộc điều trị phụ bằng quang tuyến. Điều đó chẳng làm tôi thích thú tí nào.
Và chính vì vậy mà đã xẩy ra một phép lạ nho nhỏ, không kể những phép lạ khác đã giữ gìn tôi sống đến ngày hôm nay. Một người bạn đã cho tôi biết là cha Tardif đến tĩnh tâm một ngày ở Nouan- le- Fuzelier. Vì vậy tôi đã đến gần Orléans. Phải mất 5 giờ để đi đến đó và quay trở về cũng bằng ấy giờ nội trong ngày. Tôi đã tham dự đại hội cầu nguyện dưới trời mưa, tôi không nghĩ sẽ gặp được Cha trong một đám đông như thế (năm ngàn người). Và này lúc mặt trời ngã bóng, tôi đi về phía khán đài để chờ đợi bài giáo huấn thứ hai về việc chuyển cầu, điều mà tôi rất chú ý, và tôi gặp được cha. Ngài đã nhận được một lá thư liên quan đến chủ đích của tôi, và ngài biết chủ đích đó là gì. Ngài đã đón tiếp tôi rất thân tình, đầy tình huynh đệ và rất tốt đối với tôi.
Ngài có biết qua về tôi nhờ mấy quyển sách của tôi được dịch ra tiếng Bồ-Đào-Nha ở Saint -Dominique, ngài rất thích quyển “Sức mạnh của lời cầu nguyện” (La puissance de la prière). Ngài kéo tách riêng tôi vào trong nhà thờ, và đã cầu nguyện cho tôi bằng một lời kinh chúc tụng ngợi ca. Tôi đã ở kề ngài để đón nhận lời giáo huấn, và tôi đã cùng cử hành thánh lễ tạ ơn. Trong thánh lễ có một lời cầu xin đặc biệt cho được khỏi bệnh và có rất nhiều chứng cứ cho thấy tôi được chữa lành. Khi ấy tôi không còn thấy mệt và tất cả những đau đớn dường như biến tan.
Tôi tin rằng đó là phép lạ! Nhiều lần ngài báo cho biết là vào lần đi gặp bác sĩ sắp tới, sẽ có dấu là việc điều trị bệnh được dự trù trước đây sẽ vô hiệu. Sau đó một tuần tôi phải đi gặp bác sĩ chữa trị bằng quang tuyến để chuẩn bị cho việc điều trị. Sau khi khám bệnh cho tôi, ông tuyên bố là các quang tuyến không cần thiết vì tôi đã được chiếu quang tuyến rồi, nhưng ông đề nghị tôi thực hành vài luyện tập bổ túc. Lúc bấy giờ tôi vui mừng tạ ơn Chúa, vì tôi đã chạm vào bàn tay quyền năng của Đấng Phục Sinh. Lời cầu nguyện thốt lên ở môi miệng tôi là lời cầu nguyện của Chúa Giêsu dâng lên Chúa Cha lúc Người cho Lazarô sống lại. Còn tôi lại thưa với Chúa Giêsu: Lạy Chúa Giêsu, con tạ ơn Chúa vì Chúa đã nhậm lời con, con biết rõ Chúa luôn nhậm lời con.
Ngoài những sự kiện đáng chú ý trên, tôi phải thú nhận tôi thường (không nói là luôn luôn) kinh nghiệm về sức mạnh của lời cầu nguyện trong việc làm vơi đi những khổ tâm và đau đớn. Trong những lúc dường như tất cả đè nặng lên tôi, thì tôi bắt đầu cầu nguyện (đó còn là một ân sủng) và tôi thoát khỏi đó trong tình trạng bình an, đau đớn biến mất, giống như trở bàn tay vậy.
Vào lúc tôi viết những giòng này, thì xảy ra lễ an táng bạn tôi là Jean Leclercq (52 tuổi). Người ta cắt mất của ngài một lá phổi cách đây bốn, năm tháng, thì tháng 6 xuất hiện một khối u ở trong não. Mới đây, tôi có đến thăm ngài, và với sự bẽn lẽn, dè dặt, ngài đã dấu tôi tình trạng của mình. Vị Linh Mục này là một người chân thật, đầy tình người và tình bạn, đồng thời là người của Thiên Chúa . Chính hôm qua và sáng nay tôi đã xin với ngài, và tôi cảm thấy sự hiện diện và can thiệp của ngài trong điều mà ngài đã để lại cho tôi trong ơn gọi sâu xa của tôi bằng cách ban cho tôi ơn cầu nguyện.
Ai đã dạy tôi cầu nguyện?
Sau một chút quay trở lại với tiểu sử, đã đến lúc phải trở lại với lời của thánh Luca giải thích cho đời sống của tôi hôm nay. Quay trở lại một chút với tiểu sử, có tầm quan trọng là để hiểu cách Chúa Thánh Thần tạo nên con người cầu nguyện và làm cho nó khám phá ra ơn gọi tối hậu của mình. Người ta thường nghĩ, chỉ cần được mời gọi cầu nguyện, khao khát cầu nguyện và muốn cầu nguyện thế là đủ để trở thành một con người cầu nguyện. Về điểm này, chúng ta lầm lẫn ở tận căn: trên hết, chính những thử thách dạy chúng ta cầu nguyện.
Chúng ta không bao giờ lặn sâu cho đủ vào đáy của khốn quẫn để kêu lên cùng Thiên Chúa, bởi vì tiếng kêu gào lên từ đáy sâu của tâm hồn thì luôn luôn được nhậm lời.
Ngay ngày hôm nay, sau khi đã kêu van rất nhiều và sau khi ở trong một tình trạng mà tôi không còn một giải pháp dự bị nào nữa cho bằng lời cầu nguyện, thì trong sâu xa của lòng mình tôi vẫn tin chắc rằng tôi vừa mới bắt đầu cầu nguyện. Cho dù những tiếng kêu khốn quẫn có thảm thiết như thế nào đi chăng nữa, nếu không bởi con tim cầu nguyện, thì chúng chẳng thấm vào đâu sánh với tiếng kêu nài mà Thiên Chúa chờ đợi. Nhưng vậy, hài hước mà nói, hầu như có thể chúng ta chưa bắt đầu kêu xin. Không phải tôi nói điều đó, nhưng chính Chúa Giêsu cảnh cáo các Tông Đồ khi Ngài nói: Cho tới bây giờ, anh em chưa xin gì. Hãy xin và anh em sẽ được, như thế niềm tin của anh em sẽ nên trọn vẹn. (Ga 16,24)
Nhưng tôi cũng nhận thấy rằng tôi sẽ không biết gì về cầu nguyện kêu van, nếu tôi đã không hiểu những thử thách mà tôi đã trải qua, thực ra nhiều tu sĩ và ngay cả Linh Mục cũng không nhận ra ơn lớn lao của cơn khốn quẫn. Và trong ý nghĩa đó, tôi tạ ơn Thiên Chúa đã cho tôi trải qua những thử thách bởi vì đó là phương tiện duy nhất để tôi chìm sâu trong cầu nguyện. Câu chuyện mà tôi đã kể trong cuốn “Cầu nguyện của con tim” sẽ giúp các bạn hiểu hơn.
Đó là câu chuyện về một chàng thanh niên Hy-lạp tên là Maxime, anh nghe được lời mời gọi đi vào sa mạc để thực hiện lời của Chúa: “Phải cầu nguyện luôn, không bao giờ được nản chí.” Anh ta ra đi và ngày đầu tiên trôi qua tốt đẹp. Anh ta cầu nguyện suốt ngày với Kinh Lạy Cha và Kinh Kính Mừng. Nhưng khi màn đêm buông xuống, trời tối om, và anh ta bắt đầu thấy xuất hiện những hình dạng và những ánh mắt sáng quắc trong những lùm cây. Lúc bấy giờ anh ta bắt đầu cảm thấy sợ hãi và lời cầu nguyện của anh ta lúc đó trở nên khẩn thiết hơn: Lạy Chúa Giêsu con vua Đa-vít, xin thương xót con tội lỗi. Rồi anh thiếp ngủ đi. Buổi sáng khi thức dậy, anh lại bắt đầu cầu nguyện như hôm trước, nhưng vì còn trẻ, anh cảm thấy đói khát và phải đi tìm cái ăn. Lúc bấy giờ anh bắt đầu cầu xin Chúa ban của ăn cho anh, và mỗi khi anh tìm được cái gì ăn là anh nói: “Tạ ơn Chúa”. Tối đến, với những khiếp sợ của ban đêm, và anh lại bắt đầu với lời kinh Chúa Giêsu. Dần dần anh vừa làm quen với các nguy hiểm bên ngoài, với cơn đói khát, vừa quen với sức nóng mặt trời; nhưng vì còn trẻ anh lại chịu các cám dỗ đủ thứ trong con tim, linh hồn và tinh thần của anh. Bởi đã quen với những cuộc chiến đấu, anh lại dùng kinh Chúa Giêsu. Ngày này qua ngày nọ, tháng này qua tháng kia, năm này qua năm khác cứ theo nhau đi, và cùng với nhịp điệu đó, luôn là những cám dỗ, với lời cầu nguyện , với thử thách, với những lần té ngã và chỗi dậy. Một hôm sau mười bốn năm, bạn bè của anh đến gặp anh và sững sờ xác nhận rằng anh đã trở thành con người cầu nguyện luôn. Bấy giờ họ mới hỏi anh: “Ai đã dạy anh cầu nguyện liên tục?” Và Maxime trả lời với họ: “Đơn giản thôi, chính là ma quỷ!”
Khi kể câu chuyện này, Mgr Antoine Bloom nói: “Theo nghĩa đó, thì cầu nguyện liên tục trở nên dễ dàng trong một đời sống hoạt động, ở đó người ta bị quấy nhiễu tứ phía hơn là trong đời sống chiêm niệm, nơi mà người ta không phải lo lắng gì”. Chính những thử thách, những chán chường, những đau khổ và những khốn quẫn làm phát sinh lòng trung kiên; chính sự trung kiên này đẩy ta đến cầu nguyện không ngừng.
Nhưng còn có một bước cần phải vượt qua đó là người ta có thể yêu mến cầu nguyện, và ngay cả cầu nguyện rất nhiều, như anh chàng Maxime, dưới sức nặng của đau khổ và ân sủng, nhưng từ đó bên cạnh những người được chọn để đêm ngày kêu lên cùng Thiên Chúa, còn có một khoảng cách cần phải vượt qua. Tuy nhiên cái đà trớn cho cuộc vượt qua này không đến từ chúng ta, nó đến từ một tiếng gọi đặc biệt của Chúa Thánh Thần, đặt chúng ta -thường chúng ta không ngờ- vào trong một tình trạng mà người ta không thể làm gì khác hơn là cầu nguyện. Ngày nay có những người được kêu gọi để thực hiện một khía cạnh tuyệt vời trong cuộc đời Chúa Giêsu, đó là Người cầu nguyện trong cô tịch, tách biệt với mọi người, ngày cũng như đêm, buổi sáng lúc rạng đông, hoặc ban tối tới khuya. Lại cũng có những người khác được kêu gọi thể hiện sứ vụ loan báo Tin Mừng Nước Trời của Người, qua lời nói và những dấu chỉ như chữa bệnh và giải cứu, được thực hiện qua những bệnh nhân và người bị quỷ ám. Không một tông đồ nào dám cho rằng một mình mình có thể diễn lại toàn bộ cuộc đời của Chúa Ki-tô, và kẻ nào muốn làm mọi sự thì thực sự chả làm được gì cả! Người ta nhận ra một Ki-tô hữu trưởng thành ở chỗ này là trong khi khao khát ôm lấy vũ trụ, người ấy tìm gặp niềm vui và nghỉ ngơi của tâm hồn bằng cách dừng lại nơi một công việc xác định cụ thể. Dù đó là một công việc hèn kém: (Điều người ta nói về thánh Ignace).
1.NGÀY ĐÓ, CHÚA GIÊSU CẦU NGUYỆN
Ở MỘT NƠI THANH VẮNG…
Trong ơn gọi này, tất cả bắt đầu bằng một sự quyến rũ. Cách đây 20 năm, khi tôi tĩnh tâm ở Côte-d’Ivoir, ở Sokodé. Khí hậu rất nóng và ẩm thấp, và trong giờ kinh tối, tôi gặp được lời này của thánh Lu-ca: “Chúa Giêsu đi ra núi để cầu nguyện, và Người đã thức suốt đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa”(Lc 6,12). Bất chợt trong tôi nhóm lên một khát vọng là sẽ thức suốt đêm, như Chúa Giêsu, để cầu nguyện với Thiên Chúa. Chẳng ai biết ước muốn đó phát xuất từ đâu, nó vọt lên từ những vùng sâu thẳm của con tim và xâm chiếm toàn bộ con người bạn. Tôi sẽ không bao giờ quên được biến cố đó. Tôi xin thêm ngay điều này -và đây là tất cả nghịch lý của ơn gọi- khao khát có thể là thật, đồng thời, yếu đuối của xác thịt lại ngăn chặn chúng ta thực hiện khao khát đó cho đến cùng. Ở trong lòng khao khát của chúng ta nhưng ơn gọi lại không ở sức thực hiện của ta. Tôi sẽ còn lập lại điều này là,trong lãnh vực của sự cầu nguyện liên tục, cần trở thành điên dại trong các ước muốn của mình và khôn ngoan trong việc thực hành chúng, vì một lý do rất đơn giản là toàn bộ hữu thể chúng ta, và trước tiên, thân xác chúng ta, không hoàn toàn được Chúa Thánh Thần nắn thành và khôi phục lại. Nếu ngày nào đó, nhờ ơn Chúa, chúng ta trở nên “tự nhiên” đối với việc cầu nguyện, chúng ta sẽ không còn tự hỏi mình làm thế nào để cầu nguyện không ngừng, nhưng là làm thế nào để ngừng cầu nguyện, vì cầu nguyện sẽ tuôn trào trong chúng ta như một nguồn nước không bao giờ cạn.
Nhưng tất cả bắt đầu bằng sự thu hút mãnh liệt của Chúa Giêsu trong khi Người cầu nguyện. Thật không dễ dàng mà nói về cái sự kiện, đến đúng lúc từ một lời của Tin Mừng: “Một hôm, Chúa Giêsu đang cầu nguyện”. Hoặc do chiêm ngắm bức tranh Chúa Cứu Thế, như trường hợp của thánh Silouane. Đó là một biến cố dưới hình thức cái nhìn, như ánh mắt Đức Giêsu trên ông Mát-thêu thu thuế chẳng hạn, hoặc như hai ánh mắt gặp nhau giữa Chúa Giêsu và anh trộm lành, hoặc hơn nữa như Maria Madeleine khóc lóc dưới chân Chúa Giêsu, hay như Maria khác, em của Marthe, lắng nghe lời Người. Đó là một trực giác bao quát trên lời cầu nguyện của Chúa Giêsu (một “cái nhìn” như Tauler đã nói). Thoạt đầu người ta không thể nói ngay rằng mình hiểu một cái gì đó về việc cầu nguyện của Chúa Giêsu hoặc mình được dẫn vào đó(có lẽ sẽ đến sau). Ở đó, người ta gắn bó với Chúa Giêsu trong cầu nguyện và không thể bứt ra khỏi Người được nữa. Thánh Ignace nói rằng khi ấy, người ta giống như một kẻ bần cùng được đón vào một bữa tiệc linh đình, cứ trợn tròn mắt ra mà kinh ngạc. Đúng như Isaia đã nói, lúc đó người ta sững sờ và kinh ngạc. Người ta kể rằng cha Martin Moye, con người hạnh phúc, ban sáng, khi cử hàng Thánh Lễ Tạ Ơn, không thấy thời gian trôi qua và vào lúc hai giờ, cha sở phải đi tìm, mời ngài về dùng bữa chiều.
Chính nơi “cái nhìn” ấy, người ta cảm thấy cần phải ở lại trong đó nhưng không biết tại sao. Tuy nhiên, dù không hiểu gì cả, người ta vẫn nghiệm thấy rằng ở trung tâm lời cầu nguyện của Chúa Giêsu, thế giới được móc nối với Ba Ngôi Chí Thánh, và Ba Ngôi hiện diện với thế giới. Đó là điểm tựa, nâng đỡ nhân loại trong Thiên Chúa. Theo một châm ngôn của các đan sĩ Chartreux- những người dâng mình duy chỉ cho việc cầu nguyện:“ Stat Crux, dum volvitur orbis” thập giá còn đứng sững đó bao lâu trái đất này còn quay. Người ta có thể diễn dịch câu châm ngôn đó theo cách sau đây: Trên dòng chảy điên khùng của thế giới đang lao về hư mất, có hai đầu cây gỗ hình thập giá được cắm ở trung tâm địa cầu để ngăn chặn thế giới đang đi vào vực thẳm. Thập giá đó chính là Đức Giêsu đang cầu nguyện, đang kêu van với Chúa Cha cho anh em mình: Lạy Cha xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm. Ngay khi con người được ghi dấu bằng sắt nung đỏ do lời cầu nguyện này của Chúa Giêsu, thì nó không bao giờ quên được, lời cầu nguyện đó thiêu đốt nó trong lòng như thể một ngọn lửa vậy, và không bao giờ cho nó nghỉ ngơi. Cũng như thánh Đa-minh, nó gào lên: “Ôi Chúa Giêsu, lòng xót thương của con, những người tội lỗi sẽ trở thành cái gì?” Không từ ngữ nào có thể diễn tả được cách mạnh mẽ một lời cầu nguyện như thế, đúng hơn đó là sự huy động toàn thể sinh linh nơi Đức Giêsu cầu nguyện. Đó là một biến cố hoàn toàn nội tâm, và người ta có thể ở bên cạnh con người sống đời sống đó nhưng không hay biết gì, vì bề ngoài con người đó sống như mọi người: ăn uống, ngủ nghỉ, nói chuyện, làm việc, thư giãn. Nhưng tất cả xảy ra trong “cung thánh nội tâm của lòng trắc ẩn” như trường hợp thánh Đa-minh chẳng hạn. Dù vậy cũng có những dấu hiệu không lầm lẫn được đó là sự vô cùng khiêm tốn và tình bác ái huynh đệ. Ngay khi người ấy rảnh rỗi chút xíu là anh bắt đầu quay trở lại với lời cầu nguyện của Chúa Giêsu hoặc trong nơi sâu thẳm của tâm hồn, hoặc trong bí tích Thánh Thể.
Khi Người cầu nguyện xong. . .
Nếu người ta tin vào Tin Mừng của thánh Lu-ca, thì các tông đồ đã bắt gặp được Chúa Giêsu đang cầu nguyện. Họ đã rình xem Người rút mình lên núi để cầu nguyện ban đêm, hoặc dậy sớm trước lúc rạng đông để đối thoại với Cha như Người đã làm lúc chiều tối. Người có nói với họ không? Đúng hơn dường như Ngài đã bắt đầu bằng cầu nguyện và điều đó đã làm cho họ đặt vấn đề. Thánh Lu-ca diễn tả như thế này: “Có một lần Đức Giêsu cầu nguyện ở nơi kia. Khi người cầu nguyện xong…” Người ta có cảm tưởng là các môn đệ vô cùng cảm kích do việc Chúa Giêsu cầu nguyện, đến nỗi họ không muốn quấy rầy Người, nên đã để cho Người cầu nguyện xong. Việc cầu nguyện đó khác với việc cầu nguyện của các Pharisiêu, ngay cả với việc cầu nguyện của ông Gio-an Tẩy Giả và các môn đệ ông. Chắc chắn đó là một sự cầu nguyện hoàn toàn mang tính nội tâm, một thái độ lòng bên lòng với Cha, hoặc đơn giản hơn, một sự chú tâm đầy yêu thương chuyên hướng về Cha, hoặc một sự lắng nghe lời Cha. Các môn đệ không cần hiểu rõ đó là gì, cũng như một con người không bao giờ được đánh thức ở thế giới nội tâm của nguyện ngắm thì sẽ rình xem người khác hồi tâm và dồn hết tâm lực nội tâm vào cái mầu nhiệm được giữ kín của nguyện ngắm và hỏi: “Anh ta có thể làm gì tốt không?” Đó thường là thái độ của một đứa trẻ thấy cha hoặc mẹ nó cầu nguyện. Tuy nhiên lời cầu nguyện này trào lên từ nội tâm và tràn ra bên ngoài. Nó cứ vượt ra cho đến khi xuyên thủng da, qua lỗ chân lông để trở thành khả giác và gần như có thể chạm đến được. Và khuôn mặt chính là nơi để cho lời nguyện bên trong tràn ra trở thành hữu hình. Người ta nói rằng ánh sáng ẩn giấu bên trong rất mạnh và đầy sức sống đến nỗi nó có thể xuyên qua những bức tường bên trong của con người để chiếu sáng ra bên ngoài. Ít ra đó là điều mà thánh Lu-ca còn để lại cho chúng ta trong đoạn nói về cuộc biến hình. Trong hai câu đầu của bài viết, trước tiên ngài ghi chú rằng Đức Giêsu ra đi đến núi để cầu nguyện với Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an, và để chỉ rõ ra rằng chính trong cầu nguyện mà xẩy ra cuộc biến hình, ngài nhấn mạnh: “Đang lúc Người cầu nguyện, dung mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh, chói lòa” (Lc 9,28-29). Không còn nghi ngờ gì nữa, Lu-ca cho chúng ta hiểu được rằng hiệu quả đầu tiên của cầu nguyện là có khuôn mặt mới và thái độ bên ngoài cũng đổi thay. Trong nơi sâu thẳm của lòng mình Đức Giêsu không ngừng cầu nguyện, nghĩa là luôn ở trong cuộc đối thoại với Cha, hoặc đơn giản hơn, Người luôn thông hiệp với cái nhìn của Cha, Đấng thấy rõ trong nơi bí ẩn. Nhưng một khi tương quan này căng ra, không còn có thể giấu giếm được nữa, thì phải xuất hiện ra bên ngoài thôi.
Lúc bấy giờ chắc chắn các môn đệ có chút gì đó khờ khạo; nhưng bị cuốn hút bởi việc cầu nguyện nội tâm đó, họ không biết nói làm sao để xin Chúa Giêsu dạy cho họ cầu nguyện. Khi ấy, họ dùng một câu sáo ngữ mà ai cũng biết, nhưng mang ý nghĩa sâu xa hơn nhiều so với điều người ta tưởng. Đó là câu hỏi mà mỗi người tự đặt cho mình khi thấy một trong các anh em của mình đang chìm đắm trong cầu nguyện. Khi Người cầu nguyện xong, một trong các môn đệ đến xin: “Thưa Thày, xin dạy chúng con cầu nguyện, cũng như ông Gio-an đã dạy các môn đệ của ông” (Lc 11,1). Đó chính là câu vấn đề mà người ta đặt cho một vị thày như Gio-an tẩy giả chẳng hạn. Vị này sẽ “ bật mí ” cho họ những công thức cầu nguyện hoặc, trong trường hợp tốt nhất, ngài dạyï một phương pháp.
Điều lý thú ở đây, trước tiên không phải là công thức Kinh Lạy Cha mà Chúa Giêsu sắp dạy hoặc trao cho các môn đệ, và chúng ta đã suy tư về công thức đó rồi, nhưng trước tiên đó chính là mầu nhiệm lời cầu nguyện của Chúa Giêsu ở trung tâm vũ trụ. Đó là một biến cố hoàn toàn mới lạ mà chưa bao giờ xảy ra trước ngày Giáng Sinh và sẽ kết thúc ngày Lên Trời của Chúa Ki-tô; nghĩa là ở trong tâm của vũ trụ và lịch sử, có lời cầu nguyện của Ngôi Hai trong Ba Ngôi, lời cầu nguyện của Ngôi Lời Nhập Thể. Đó là một biến cố chưa từng nghe tới, không thể nghĩ tới mà con người sẽ không bao giờ ngơi chiêm ngắm và thăm dò. Ngay khi Ngôi Lời mặc lấy xác phàm trong lòng mẹ Maria vào ngày thiên thần truyền tin, thì người ta có thể nói lời cầu nguyện của Thiên Chúa đã có đó, ở trung tâm nhân loại. Dù muốn dù không thì mặt đất này đã thay đổi.
Thiên Chúa gắn chặt số phận Người với nhân loại. Từ đây người ta không thể nói về Thiên Chúa mà không đồng thời đề cập đến con người, và ngược lại không thể nói về con người mà không đồng thời nói về Thiên Chúa. Những số phận đó kết chặt lấy nhau không thể gỡ ra được nữa. Nhờ vậy mà con người không cần phải vươn lên để gặp Thiên Chúa nữa, nhưng nó cần trở về tìm gặp Người ở nơi con tim nhân loại của mình. Từ trước tới nay, cầu nguyện là nâng mình lên cùng Thiên Chúa và dâng lên Người lời kêu xin hoặc để diễn tả tình yêu hoặc nói lên sự biết ơn. Nhưng bây giờ cầu nguyện cốt ở chỗ là thực hiện hoặc ý thức về lời cầu nguyện của Đức Kitô ở trong lòng nhân loại hoặc trong tâm hồn mỗi người chúng ta.
Sống với Chúa Ki-tô, các môn đệ kinh nghiệm được rõ ràng hành vi cầu nguyện của Người và lời cầu nguyện của Thiên Chúa, như họ đã kinh nghiệm về Ba Ngôi trong khi đi vào đám mây: “Một đám mây sáng chói bao phủ lấy các Ngài và họ hết sức sợ hãi” (Lc 9,34). Hành vi cầu nguyện đó của Chúa Giêsu cũng tạo nên phần thiết yếu cho sứ vụ của Người, bởi vì Chúa Giêsu không chỉ đến để nói với con người về Chúa Cha, nhưng nhất là nói với Cha về con người. Nói cách khác, người ta không biết tại sao Người đã dành nhiều thời gian để cầu nguyện theo như các sách Tin Mừng đã thuật lại. Và người ta cũng không hiểu tại sao con người ngày nay còn cố gắng hiện tại hoá trên trái đất này hành vi cầu nguyện đó.
Chính bởi vì các tông đồ đã cảm nghiệm được rằng Chúa Giêsu đã sống cái tương quan đặc biệt với Cha Người và hành vi cầu nguyện đó hoàn toàn khác với việc cầu nguyện của các môn đệ Gio-an hay Pharisiêu, mà họ đã xin Người dạy cho họ cầu nguyện và Người đã chỉ cho họ Kinh Lạy Cha. Có phải họ xin điều đó là để được cầu nguyện với Người, hoặc để liên kết với hành vi cầu nguyện của Người hoặc để kéo dài lời cầu nguyện đó, khi Người rời bỏ họ? Câu trả lời không quan trọng lắm, điều thiết yếu là họ khao khát được dẫn vào trong tương quan với Cha, mà chính tương quan đó tạo nên cái nền tảng cho hữu thể của Chúa Giêsu. Vả lại lời xin đó của các môn đệ liên quan với chính ước muốn của Chúa Giêsu: Người đã làm người để chia sẻ với chúng ta kinh nghiệm duy nhất về Cha mà Người đã có trong cõi đời đời. Kinh nghiệm đó được tóm lại trong một từ duy nhất: Abba! Cha ơi!, một từ được lập đi lập lại mãi, được thì thầm trong thinh lặng của con tim cho đến khi nó đặt chúng ta vào trong Cha hay dưới cái nhìn của Cha.
Luôn sống để cầu thay nguyện giúp…
Nếu Chúa Ki-tô đã xin chúng ta cầu nguyện luôn, không bao giờ mệt mỏi, không bao giờ nản chí, bởi chính Người đã cầu nguyện không ngừng. Thánh Lu-ca nói “Khi Người cầu nguyện xong…” . Xét cho cùng Chúa Giêsu không bao giờ kết thúc cầu nguyện, vì hôm nay Người vẫn tiếp tục cầu bầu cho chúng ta trong vinh quang. Lời cầu nguyện khả giác của Người có thể ngưng lại trước con mắt các môn đệ, nhưng trước mắt Cha Ngườøi chuyện đó luôn được theo đuổi trong những nơi thâm sâu của hữu thể Người. Chính vì lý do đó mà Người ám chỉ đến những người được chọn, những người kêu lên cùng Thiên Chúa ngày đêm.
Người ta muốn biết đâu là nội dung lời cầu nguyện của Chúa Giêsu, giống như các tập sinh trẻ của Phan-xi-cô, lén núp trong những vách núi đá Alverne để lắng nghe vài tiếng kinh nguyện của ngài, nhưng họ vô cùng thất vọng vì họ chỉ nghe được một tiếng kêu duy nhất lập đi lập lại suốt nhiều giờ: “Chúa ơi! Chúa ơi! Chúa ơi!”. Cũng thế chúng ta luôn ở nơi ngưỡng cửa mầu nhiệm cầu nguyện của Chúa Ki-tô với Cha Người, bởi vì đó là một tương quan ngôi vị, và tương quan này là duy nhất.
Người ta chỉ có thể lấy lại từng lời và đọc thong thả trong thinh lặng của tâm hồn, những lời nguyện của Chúa Giêsu trong Tin Mừng, cũng như những lời cầu xin trong kinh Lạy Cha. Với cách thức này, chúng ta tái tạo lại chúng, để như thể, chúng trở nên một phần máu thịt của chính chúng ta. Đôi khi ngọn lửa Thánh Linh xuyên qua những lời nguyện ấy và chúng ta không thể không ngừng lập đi lập lại, như thể chúng đã trở thành lời nguyện riêng của chúng ta.
Có một chuyện mà chúng ta ít biết là lời nguyện của Chúa Giêsu khi còn sống tại thế, có âm hưởng trên lời cầu nguyện của Người trong vinh quang trên trời. Một điều thú vị! Người ta không biết chính xác nội dung lời cầu nguyện của Người, nhưng người ta biết tại sao Người đã cầu nguyện rất nhiều và mãnh liệt. Cứ cầu nguyện và suy niệm mãi về lời cầu nguyện của Chúa Giêsu, đôi khi người ta tự hỏi tại sao Người đã cầu nguyện và cũng thế, tại sao ta phải cầu nguyện.
Đối với chúng ta, cầu nguyện là chuyện bình thường, vì chúng ta là những tạo vật, và theo đúng đạo đức của một con người, qùy gối xuống là điều cần thiết. Như Luther nói: “Một Ki-tô hữu phải cầu nguyện như anh chàng đóng giầy”. Điều đó phát xuất từ nơi mình, bởi vì con người được Thiên Chúa tạo dựng, nó lãnh nhận mọi sự từ Người. Vì vậy, con người cần xin tất cả ở nơi Cha nguồn ánh sáng, mà từ đó phát xuất mọi ân huệ hoàn hảo. Cha sở họ Ars nói: “Con người là một kẻ nghèo khó, cần xin mọi sự ở nơi Thiên Chúa”. Và cũng vì vậy mà nó cần trả lại cho Người tất cả trong hành vi tạ ơn và ca ngợi. Còn việc thờ lạy, thì đã được ghi khắc vào trong chính hữu thể thụ tạo chúng ta rồi. Chúng ta thờ lạy Thiên Chúa bởi vì Người là Thiên Chúa và chúng ta được dựng nên là để thờ lạy, ca ngợi và phục vụ Người, và qua đó không ngừng sống với Người (thánh Ignace cũng nói gần như vậy).
Nhưng người ta có thể tự hỏi tại sao Chúa Ki-tô, Ngôi Lời Thiên Chúa, Ngôi Hai trong Ba Ngôi Chí Thánh, lại phải thờ lạy và cầu nguyện, bởi vì Người ngang hàng với Cha Ngài và có thể tự ban cho chính mình điều mà Người cần. Suy nghĩ về chuyện đó là điều rất quan trọng bởi vì bằng cách đo lường cái khoảng cách vô tận tách biệt chúng ta với Người, chúng ta có đủ lý do mạnh mẽ hơn để hiểu tại sao cầu nguyện đối với chúng ta là một nhu cầu sống còn và một điều cần thiết. Đó là vấn đề sinh tử. Thiếu oxy người ta sẽ chết. Trong ý nghĩa đó, cầu nguyện thực sự là sự sống của cuộc đời chúng ta, và chúng ta được tạo dựng để cầu nguyện giống như cá được dựng nên để bơi lội. Chúng ta thường nghĩ là Chúa Ki-tô đã cầu nguyện để diễn tả tình yêu của Người đối với Cha, để ca ngợi và chúc tụng Cha. Và đúng, một lời cầu nguyện như thế thường đã trào lên trên môi miệng Người: “Lạy Cha, con chúc tụng Cha, vì Cha đã giấu điều đó với người không ngoan; …con ca ngợi Cha… con tạ ơn Cha, vì Cha đã nhậm lời con, con biết rõ Cha luôn nhậm lời con! ”. Nhưng lời cầu nguyện như thế phát ra từ chính mình Người, và hết sức tự nhiên, nếu có thể nói được như thế. Còn có một lời nguyện khác được thốt lên từ vực thẳm của cảnh khốn cùng và âu lo. Đó là lời cầu nguyện của cơn hấp hối mà các thánh sử Tin Mừng đã nói với chúng ta rằng Người đã phải kêu lên với Cha ba lần. Chính vì vậy mà chúng ta có được lý do tối hậu về sự cầu nguyện của Chúa Giêsu: Người đã cầu nguyện, khẩn nài vì sự yếu đuối của bản tính xác thịt của Người. Rồi đây khi Người ra lệnh cho các Tông Đồ phải cầu nguyện, thì Người sẽ nói với họ cùng một điều và sẽ giải thích cho họ lý do tại sao họ phải cầu nguyện: “Anh em hãy coi chừng và cầu nguyện luôn kẻo sa vào quyền lực của cám dỗ, bởi vì tinh thần thì lanh lẹ mà xác thịt thì yếu đuối.”
Chúa Giêsu, khi mặc lấy xác phàm giống như chúng ta, tự nhiên Người có kinh nghiệm về tính mong manh và yếu đuối của xác thịt, và đã trải qua những nỗi chán chường và khốn quẫn. Chính Người đã có kinh nghiệm buồn phiền đến chết được, và kêu lên lời cầu nguyện từ đáy sâu của vực thẳm đó. Người ta nói rằng có vài người, cả nam lẫn nữ (Adrienne von Speyr), đã kinh nghiệm về lời cầu nguyện của Đức Kitô, của Mẹ Maria và của các thánh. Tôi tưởng rằng chính từ kinh nghiệm đó mà ta phải hiểu, điều mà Đức Kitô chia sẻ không phải là Người kể cho họ những lời nói hay những tâm tình Người diễn tả với Cha, nhưng là những kinh nghiệm về sự khốn quẫn, chán chường và tiếng kêu cứu trong lời cầu nguyện của Người. Trong mọi trường hợp, chính bằng cách ấy mà tôi cảm nhận được tiếng kêu đó một cách mạnh mẽ. Vào những lúc mà tiếng kêu xin mãnh liệt nổi lên, người ta tự nhủ: chính như thế mà Chúa Giêsu đã cầu nguyện ở Giêtsêmani, ngay cả khi người ta ở vào thời qúa xa xôi với tiếng kêu của Người.
Tôi cũng tin rằng một lời cầu nguyện như thế không có một nội dung nào về từ ngữ, về lời nói và ngay cả về tư tưởng, đó chính là một tiếng kêu dài trong thinh lặng vọng lên từ cảnh khốn cùng của chúng ta, giống như tiếng kêu của Chúa Ki-tô. Khi Chúa Giêsu ban cho ai ơn cầu nguyện như thế, thì Người cũng thông ban cho họ điều tốt nhất, và vẫn xẩy ra như thế dù đôi khi người ta không ý thức. Đó là một trong những lúc gắn bó tha thiết và yêu mến Người nhất. Người không liên kết với các bạn bằng tình cảm hay cảm tính, nhưng bằng hơi thở sống động từ con người của Người, tức là hơi thở Thần Khí liên kết Người với Cha. Cũng như thế, Chúa Giêsu để cho con người của Người được chia sẻ cái đà sống và cái hôn yêu thương của mình đối với Cha. Tình yêu tinh tuyền là sự trao đổi hơi thở sống động trong Cha. Vào những lúc đó, con người không luôn luôn ý thức về chuyện ấy, bởi vì nó hoàn toàn ở trong tiếng kêu đó, và không có thì giờ để phân tích cái gì đã xảy ra trong nó. Về sau, người đó ý thức được rằng trong đó mình đã sống sự kết hợp yêu thương thực sự với Chúa Ki-tô. Ai đãù kinh nghiệm tiếng kêu đó, thì không bao giờ quên được nữa, vì biết rằng nếu Thiên Chúa để cho mình sống là để tiếng kêu đó của Chúa Giêsu trên thập giá còn vang vọng mãi trên mặt đất này. Sống là cầu nguyện như thế. Vì biết mình yếu đuối nên không thể ở mãi trong tình trạng cầu nguyện. Nhưng sự yếu đuối cũng có thể là một mũi nhọn thúc đẩy anh ta kêu xin. Nhất là khi khó mà bỏ được những yếu đuối của xác thịt của mình, rồi sinh ra kiêu ngạo, là mối tội đầu, một trở ngại thật cho tiếng kêu van. Đừng bao giờ ngừng tiếng kêu van (trừ phi Thiên Chúa bảo ngừng). Bằng lòng với số phận thụ tạo nghèo nàn, mang trong mình xác thịt và máu huyết đang kêu lên cùng Thiên Chúa. Tắt một lời, suốt cuộc đời ta luôn là một con người nghèo, một mảnh áo tả tơi, như ai đó đã nói với tôi.
Để hiểu điều đó, cần suy nghĩ và cầu nguyện theo thư gởi tín hữu Do Thái, nói về lời cầu nguyện của Chúa Ki-tô lúc sống tại thế, gợi lên lời cầu nguyện của Chúa Giêsu ở vườn Giếtsêmani. Vì đã đề cập đến yếu tố không gian và thời gian-khi còn ở trong thân xác- người ta có thể nghĩ rằng suốt cuộc đời của Người, Đức Kitô đã cầu nguyện theo cách đó. Lời khẩn nài và kêu xin ấy là nền tảng cho lời cầu nguyện của Người. Bản văn càng hay hơn nữa khi tiếng “trong lúc” được dùng nhiều lần trong cùng một lá thư, nghĩa là trong vinh quang Chúa luôn cầu bầu. Chúng ta trở lại phần thứ nhất:
“Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giêsu đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết. Người đã được nhậm lời, vì có lóng tôn kính. Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục; và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người, vì Người đã được Thiên Chúa tôn xưng là Thượng Tế theo phẩm trật Men- ki-xê-đê ” (Dt 5,7-10).
Âm điệu của lời nguyện này là âm điệu của nhân tính Đức Ki-tô. Để đại diện cho nhân loại, Người cũng là một thành phần để đồng cảm với cảnh khốn cùng và chia sẻ với họ: “Người có khả năng cảm thông với những kẻ ngu muội và những người lầm lạc, bởi vì chính Người cũng đầy yếu đuối” (Dt 5,2). Nhân tính xác thịt đã được thấy rõ trong suốt cuộc đời tại thế của Chúa Giê-su, nhất là qua cơn hấp hối và cái chết. Chính vì thế mà lời cầu nguyện thống thiết với nước mắt, đã ôm gọn lấy cuộc đời Người, từ tiếng kêu đầu tiên khi mở mắt chào đời: này con xin đến để làm theo ý Cha, cho đến tiếng kêu im lặng trên thập giá, phó thác linh hồn trong tay Cha. Lời cầu nguyện của Chúa Ki-tô lúc hấp hối được thưa lên từ sự suy phục trọn vẹn thánh ý Cha. Người đã được lắng nghe và nhậm lời. Trong ý nghĩa đó, lời cầu nguyện của Người thực sự là lời cầu nguyện của chúng ta, và khi chúng ta kêu lên cùng Cha với lời thống thiết van nài, thì Cha thấy khuôn mặt Con của Người trong chúng ta với cùng một tiếng kêu và cùng một ánh mắt.
Giờ đây Chúa Giê-su đang ở trong vinh quang bên hữu Cha. Nhưng Người có còn tiếp tục cầu nguyện cho chúng ta như thế không? Phải trả lời một cách xác quyết: “có”. Toàn bộ Tân Ước cho chúng ta biết: hoạt động duy nhất của Chúa trong vinh quang là cầu bầu, ngoại trừ ngày phán xét chung thời sau hết, là lúc mà chính Người sẽ xét xử. Và việc cầu bầu đó có hiệu quả cao gấp bội, vì từ nay Đức Giê-su được tôn lên trong vinh quang, được đặt làm Thầy và làm Chúa của người sống cũng như kẻ chết. Cuộc vượt qua của Người trong vâng phục với cuộc khổ nạn vinh quang đã mang lại cho Người mọi quyền năng bên cạnh Chúa Cha, Đấng đã thực sự đặt tất cả trong tay Con mình. Bản văn chính yếu ởû đây là thư gởi tín hữu Do-thái. Qua cái chết vinh quang, Đức Giê-su đi vào đời sống vĩnh cửu và Người mang phẩm chức Thượng Tế muôn đời: “do đó Người có thể đem ơn cứu độ vĩnh viễn cho những ai nhờ Người mà tiến đến cùng Thiên Chúa …” (Dt. 7,25).
Cần lưu ý, Đức Giê-su hằng sống, theo một thành ngữ thường thấy trong sách Công Vụ, tương đương với câu “Đức Giê-su đã sống lại”. Người hằng sống để cầu bầu. Từ đây, trong vinh quang trên trời Người không ngừng cầu bầu cho mọi người ở mọi thời đại và mọi thế hệ. Khi chúng ta nói con người sống là để cầu nguyện, thì chỉ cần ngắm nhìn kiểu mẫu của mình là Con Người Mới, con người liên lỉ cầu nguyện. Giới hạn trong không gian và thời gian, nên chúng ta khó có thể nghĩ rằng Đức Ki-tô luôn chuyển cầu cho nhân loại. Phục Sinh, Đức Kitô vẫn mang thân xác, Người vào trong vĩnh cửu với lời cầu nguyện không bị giới hạn bởi không gian, trở thành vĩnh cửu như chính bản thân Người vậy. Lời cầu nguyện của Người là một khoảng vĩnh cửu. Ngày nay gắn bó với Đức Ki-tô phục sinh tức là gắn bó với Người trong lời cầu nguyện trước mặt Cha Ngài. Có thể nói đó là sứ vụ duy nhất của Người ! Đã đến lúc chúng ta tự hỏi làm sao lời cầu nguyện của Đức Ki-tô trong vinh quang còn hiện diện trên mặt đất này từ khi Người lên trời.
Lời cầu nguyện của Chúa Thánh Thần
Bao lâu Đức Ki-tô còn ở trên trái đất, lời cầu nguyện luôn ở trong Người. Khi nối kết nhân loại với Ba Ngôi, lời cầu nguyện đã nối trời với đất. Từ ngày lên trời, một giai đoạn mới đã bắt đầu. Mười ngày mà các Tông Đồ hợp nhau cầu nguyện cùng với Đức Trinh Nữ Maria vẫn còn tiếp diễn: “Tất cả các ông đều đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với bà Maria thân mẫu Đức Giê-su, và với anh em của Đức Giêsu” (Cv 1,14). Chính Đức Maria, Mẹ của Chúa, đảm bảo cho sự hiện diện và sự gắn bó chặt chẽ của lời cầu nguyện của các môn đệ. Chúng ta cần trở lại với lời cầu nguyện của Mẹ Maria sau Phục Sinh, chính lúc ấy Mẹ nhớ lại trong tâm hồn mình những biến cố trong đời sống của con mình và chuyển thành lời cầu nguyện. Chương sau đây sẽ dành để bàn về Mẹ, Đấng thực sự là mô phạm và là kiểu mẫu cho những ai được kêu gọi để đêm ngày kêu van lên cùng Thiên Chúa. Tắt một lời, Mẹ xuất hiện như một người mẹ của sự cầu nguyện liên tục. Và những ai ở trong Giáo Hội được kêu gọi với tư cách cá nhân, để sống lời cầu nguyện này thì sẽ luôn đưa mắt dõi theo Mẹ và Đức Ki-tô, Đấng đã chọn Mẹ làm mẹ các môn đệ.
Trong nhà tiệc ly, Mẹ cầu nguyện trong sự chờ đợi sức mạnh từ trên xuống đã được Đức Ki-tô hứa đổ xuống trên các Tông Đồ. Chắc chắn cùng với các môn đệ, Mẹ nhớ lại những lời sau bữa tiệc ly, nhất là những lời liên quan đến cầu nguyện. Sau khi chứng kiến Đức Ki-tô lên cùng Cha, Mẹ không thể quên những lời của Người; cùng với các môn đệ, Mẹ luôn nhìn thấy “Giê-su” đang cầu nguyện suốt thời gian tại thế, và Mẹ biết –chính Người đã xác quyết điều đó – rằng ở trên cao, Người sẽ xin Cha phái Thần Khí xuống trên các Tông Đồ. Mẹ cũng biết rằng Thần Khí không ở với các môn đệ theo vẻ bên ngoài nhưng ở trong họ: “Thầy sẽ xin Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Đó là Thần Khí sự thật, Đấng mà thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy Người cũng chẳng nhận biết Người. Còn anh em biết Người, vì Người luôn ở giữa anh em và trong anh em” (Ga 14,16-17).
Lấy lại những lời của Chúa, người ta có thể tự hỏi, cũng như đối với Chúa Ki-tô, đâu là nền tảng của lời cầu nguyện này; tôi muốn nói tới một điểm chủ chốt, đó là sự kiện mang lại âm điệu cho lời cầu nguyện của Người. Có một từ trong sách Công Vụ Tông Đồ khả dĩ đem lại phần nào cho câu trả lời. Cái từ đó nói rằng họ siêng năng cầu nguyện; “siêng năng” một tính từ chỉ tính liên tục, sự kéo dài, tắt một lời là sự kiên trì. Người ta có thể dễ dàng nghĩ rằng lời cầu nguyện của Mẹ Maria ở nhà tiệc ly phải giống với lời cầu nguyện của Chúa Giê-su lúc hấp hối là, không ngừng thì thầm danh của Cha: Abba, Cha ơi! Lời cầu nguyện thật đơn giản, được thực hiện do việc lập đi lập lại không mệt mỏi; sự lập đi lập lại đó đào sâu con tim và làm trào dâng lời cầu xin của Chúa Thánh Thần, như thể một mạch nước chảy ngầm. Đó là lời cầu nguyện đã được thống nhất, đổ về nguồn trong tiếng nài van hơn là trong những lời hoa mỹ. Đó là lời cầu nguyện của người nghèo, của người đau ốm và của người tội lỗi trong Tin Mừng, nó được tóm lại trong một tiếng kêu với Đấng Cứu Độ: Lạy Chúa Giê-su, xin thương xót con.
Nếu lời cầu nguyện của Chúa Ki-tô trước tiên nói với Chúa Cha, thì lời cầu nguyện của Mẹ Maria và các Tông Đồ, trước tiên là thưa với Chúa Giê-su, Chúa của vinh quang. Và đối tượng của lời cầu nguyện này là chính lời hứa của Chúa Giê-su: phái Thần Khí đến với họ. Ta có thể nói rằng chính Chúa Giê-su đã truyền cho họ phải cầu nguyện theo cách đó: “Đức Giêsu truyền cho các ông không được rời khỏi Giêrusalem, nhưng phải ở lại mà đợi chờ điều Chúa Cha đã hứa, điều mà anh em đã nghe Thầy nói tới, đó là ông Gio-an thì làm phép rửa bằng nước, còn anh em trong ít ngày nữa sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần” (Cv 1,4-5). Cùng với Mẹ Maria, các Tông Đồ không xin với Chúa Giê-su điều gì khác ngoài việc xin sai Thần Khí đến, vì Người đã hứa cầu nguyện theo ý tưởng đó (Ga 14,16). Trong bối cảnh đó, Chúa Giê-su đã nói nhiều về việc cầu nguyện nhân danh Người: Tất cả những gì anh em xin cùng Cha nhân danh Thầy thì Người sẽ ban cho anh em. Như vậy lời cầu nguyện của họ có thể tóm lại trong một lời duy nhất: “Lạy Chúa Giê-su, xin phái Thần Khí của Ngài đến với chúng con”.
Như đã đề cập đến trên kia, thật rất hay khi nhận ra điều này là, trong lời cầu nguyện của mình, Chúa Giê-su luôn nói với Cha, nhưng các môn đệ và các Tông Đồ thì lại quay về với Chúa Giê-su để kêu xin Người. Thí dụ như cuộc tử đạo của thánh Stêphanô, ngài thấy trời mở ra và Con Người đứng bên hữu Thiên Chúa. Lời cầu nguyện của thánh nhân khi ấy nói trực tiếp với Chúa Giê-su bằng chính những lời của Chúa Giê-su trong cuộc khổ nạn, khi mà Người trao Thần Khí của Người trong tay Cha, còn thánh Stêphanô lại phó tâm hồn mình cho Chúa Giê-su và cũng như Người, thánh nhân xin sự tha thứ cho những đao phủ. Khi người ta ném đá ngài, ngài đã kêu xin: “Lạy Chúa Giê-su, xin đón nhận linh hồn con”. Rồi ngài quỳ gối xuống và kêu lớn tiếng: “Lạy Chúa, xin đừng trách cứ họ về tội này”. Và đang khi nói lời đó, ngài đã an nghỉ (Cv 7,59-60).
Điều này thật đáng lưu ý đối với lời cầu nguyện của chúng ta. Khi chúng ta cầu nguyện cùng với Mẹ Maria, thì chính Chúa Ki-tô mà chúng ta phải đưa mắt hướng về. Chính Danh thánh của Người mà chúng ta phải cầu xin, “bởi vì dưới gầm trời này không có một danh nào khác được ban cho con người để nhờ đó mà chúng ta được cứu độ ” (Cv 14,12). Không có gì dễ dàng cho bằng việc kêu xin danh Chúa Giê-su, nhưng đồng thời không có gì khó khăn cho bằng việc kiên trì cầu nguyện không ngừng với Danh Thánh ấy. Chính trong ý nghĩa đó, khi Chúa Giê-su nói với những người được chọn để đêm ngày kêu lên với Thiên Chúa, thì Người nghĩ đến những người đang sống như mọi người, nhưng dâng hiến cuộc đời mình cho duy một việc kêu cầu danh Người, ngay cả khi lo chu toàn công việc được giao, họ cũng dành thời giờ cho việc cầu nguyện. Những con người như thế rất hiếm. Khó khăn không phải do cầu nguyện (vì không có gì đơn giản cho bằng việc kêu danh Chúa Giê-su), nhưng là do rất ít người tin vào ơn gọi này. Tuy nhiên, Chúa Giê-su rất cần những người như vậy, và niềm tin trên trái đất lệ thuộc vào lời cầu nguyện không ngừng của họ: “khi Con Người đến, liệu còn thấy niềm tin trên trái đất nữa không?”
Khi khát vọng và cầu nguyện tích tụ lại thì không thể nào mà Chúa Giêsu lại không chú ý đến. Đó là biến cố ngày lễ Ngũ Tuần ở Giêrusalem theo như sách Công Vụ Tông Đồ đã thuật lại. Từ lúc đó, có một cái gì đã thay đổi. Ta có thể nói rằng bộ mặt của trái đất đã bị đảo ngược: Thần Khí Chúa tràn đầy vũ trụ và làm thay đổi mặt địa cầu. Lời cầu nguyện của Chúa Giê-su vẫn hiện diện trong lòng thế giới cho đến ngày Người về trời. Rồi từ đấy, lời cầu nguyện của Chúa Thánh Thần sẽ tiếp tục hiện diện giữa lòng vũ trụ và trong lòng mỗi người tín hữu. Rất ít người Ki-tô hữu và ngay cả các Linh Mục, ý thức được điều này khi họ nói về sự cầu nguyện. Trước hết, họ chỉ thấy ở đó hoạt động của con người, ngay cả khi hoạt động đó được trợ giúp bởi Chúa Thánh Thần để tìm kiếm khuôn mặt của Chúa Giê-su và của Chúa Cha. Tuy nhiên, khi ấy không phải con người cầu nguyện, nhưng chính Thần Khí hiện diện trong lòng thế giới đang không ngừng cầu nguyện. Mỗi lần chúng ta bắt đầu cầu nguyện, chúng ta phải ý thức về việc cầu nguyện này của Chúa Thánh Thần, Đấng đang ở trong chúng ta. Người đi trước chúng ta và tiếp tục cầu nguyện, ngay cả khi chúng ta ngưng cầu nguyện. Dù muốn dù không, thì từ ngày lễ Ngũ Tuần hoặc ngay khi Thần Khí được Chúa Giê-su trút xuống từ trên thập giá vào chiều lễ Vượt Qua, lời cầu nguyện sẽ không ngừng lại nữa dù chỉ là một tích tắc trên mặt đất này, cho đến ngày Chúa Ki-tô quang lâm. Chúng ta đang sống trong một vũ trụ được đắm chìm và ngập tràn bởi lời cầu nguyện.
Chắc chắn nhiều người không ý thức được sự hiện diện của lời cầu nguyện Thần Khí ở trong lòng thế giới. Ngay nhiều Ki-tô hữu cũng không ý thức được sự hiện diện này của lời cầu nguyện trong lòng của họ: dù họ ngủ, dù họ thức, dù họ ăn uống, nghỉ ngơi, thì lời cầu nguyện không ngừng lay động con tim họ. Nhất là lời cầu nguyện đó không lệ thuộc vào ý thức chúng ta. Từ đó phát sinh ra các linh phụ tỉnh thức (Pères neptiques). Các vị này nói rằng chúng ta là những người mê ngủ, không ý thức lời cầu nguyện đang ở trong chúng ta và rằng tất cả các hoạt động thiêng liêng cốt ở chỗ là ý thức về điều mà chúng ta đang mang trong mình. Từ đó nảy sinh việc tập luyện lời kinh Chúa Giê-su, nảy sinh những chuyện như tỉnh thức, ăn chay, hoán cải, mà không nói về sự khiêm tốn, hiền lành, từ bỏ và sự tha thứ đối với những xúc phạm, là những thứ giữ chúng ta lại trong tình trạng canh chừng và làm thoát ra lời cầu nguyện đang có đó trong chúng ta. Mỗi một lời cầu nguyện mà chúng ta cất lên có mục đích là làm cho chúng ta ý thức hơn về lời cầu nguyện liên tục này, nó không ngừng tuôn chảy trong lòng chúng ta, cho đến ngày mà lời cầu nguyện ấy sẽ xâm chiếm vùng ý thức của chúng ta. Nhưng muốn điều đó chưa đủ, cần phải có rất nhiều thời gian để trở thành một trong những con người cầu nguyện này, những con người mà từ bên trong, họ đã bị chiếm đoạt không phải bởi cái gì khác ngoài lời cầu nguyện. Khi Thiên Chúa đặt ước muốn này vào trong tâm khảm con người, đó là dấu hiệu Người muốn ban ơn đó cho nó, vì “Thiên Chúa không làm cho ai khao khát điều gì mà lại không muốn ban nó cho họ” (thánh Gio-an Thánh Giá). Nhưng Người cũng đòi sự cộng tác của chúng ta, vì nếu ơn huệ này là nhưng không, thì nó không mang tính áp đặt. Thiên Chúa chờ đợi chúng ta mỗi ngày bắt đầu bằng việc tìm kiếm viên ngọc quý. Thường thường, người ta thấy ơn huệ này sinh hoa kết quả vào khoảng giữa tuổi năm mươi hoặc sáu mươi. Nhưng khi đó người nhận ra nó, không còn ý thức về tất cả những gì anh xin nữa, bởi lẽ anh đã chìm vào trong lời cầu nguyện không ngừng của Thần Khí. Tình trạng đó giống đứa bé nằm trong bụng mẹ, nó sống trong bà và nhờ bà, nhưng nó không thấy khuôn mặt của bà. Như thế, người cầu nguyện không ngừng thì hoàn toàn nằm trong lòng Thiên Chúa và nhất là nó bị che khuất dưới con mắt của người khác và của chính mình.
Vừa rồi chúng tôi chỉ mới xác định sự hiện diện của lời cầu nguyện liên tục trong lòng mỗi người tín hữu và trong vũ trụ. Chắc chắn với sự giúp đỡ của thánh Phao-lô, chúng ta cũng cần biết con tim cầu nguyện “thi hành chức năng” của nó bằng cách nào. Nhưng chúng tôi đã làm điều đó trong những bài viết trước của rồi, ở đây, chúng tôi chỉ muốn lập lại thôi. Đơn giản là chúng tôi nói rằng Chúa Thánh Thần kết nối với tâm thần của chúng ta để cầu nguyện trong chúng ta và xác quyết rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa. Chính Người thăm dò những nơi sâu thẳm của Thiên Chúa và những nơi sâu thẳm của riêng từng người chúng ta. Người làm cho chúng ta ý thức về những ân huệ mà Thiên Chúa đã thực hiện cho chúng ta. Nhất là Người làm cho chúng ta ý thức rằng chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải trong khi kêu cầu từ bên ngoài, thì Người làm vọt trào lên trong chúng ta những tiếng kêu rên xiết khôn tả. Chính khi đó mà con tim cầu nguyện của chúng ta cùng thức tỉnh với chính lời cầu nguyện của Chúa Thánh Thần: “Và Thiên Chúa, Đấng thấu suốt tâm can, Thần Khí muốn nói gì, vì Thần Khí cầu thay nguyện giúp cho dân thánh theo đúng ý Thiên Chúa” (Rm 8,27). Tất cả thuộc về chúng ta, vì lời cầu nguyện của Chúa Thánh Thần đi vào trong những nơi sâu thẳm của riêng từng người. Lời cầu nguyện này trước tiên là lời cầu nguyện của Chúa Thánh Thần trong chúng ta, lời cầu duy nhất có thể làm hài lòng Thiên Chúa.
2.MARIA SUY ĐI NGHĨ LẠI TRONG LÒNG
Đối với tất cả những tín hữu cảm thấy được kêu gọi sống đời cầu nguyện không ngừng và được chọn để đêm ngày kêu lên cùng Thiên Chúa, thì họ có Đức Nữ Đồng Trinh Maria ở bên cạnh, nhất là khi họ khám phá ra lời cầu nguyện khôn dò của Chúa Giê-su. Đồng thời, họ cũng kinh nghiệm được rằng Mẹ Đồng Trinh là một mầu nhiệm của sự ưu ái. Người ta không thể tiến lại gần Mẹ nếu không được Chúa Giê-su lôi kéo và nếu không đón nhận ơn sủng của Chúa Thánh Thần. Không phải tất cả mọi người đều có được một tình yêu hoàn toàn của Mẹ Maria, và cũng không phải qua Mẹ tất cả đều nẩy sinh ra cầu nguyện trong suốt đời sống của chúng ta. Đó là ân huệ mà Chúa Thánh Thần khơi lên. Thánh Grignion de Montfort nói rằng trái tim của Đức Maria là phòng cầu nguyện, trong đó chúng ta thực hành tất cả lời cầu nguyện của chúng ta. Chúng ta không có khả năng nghiệm ra sự hiện diện liên tục của Mẹ Maria ở bên cạnh chúng ta và ngay trong chúng ta. Đó hoàn toàn là ân huệ của Chúa Thánh Thần. Thánh Mutien-Marie de Malonne nói rằng ngài đã xin Mẹ Maria đồng hành với ngài trong mọi việc ngài làm và từ khi đó ngài cảm thấy sự hiện diện của Mẹ bên cạnh ngài. Người ta nhận thấy điều đó nơi một vài vị thánh đã là những người bạn cao cả của Mẹ Đồng Trinh.
Nhưng phải hết sức cẩn thận khi quá vật chất hoá sự hiện diện này hoặc tưởng tượng ra nó ở một bình diện cảm giác. Mẹ Đồng Trinh hiện diện với ai nhiều, thì lại ít làm cho người đó cảm nghiệm được sự hiện diện này. Đó là một trong những luật căn bản của đời sống Mẹ ngay cả khi chúng ta sử dụng những từ như: cảm nghiệm, kinh nghiệm hoặc cảm giác được sự hiện diện của Mẹ. Như thế, luật này có thể được hiểu là, Đức Maria càng đi vào trong đời sống của một tín hữu nào đó và chiếm một chỗ quan trọng trong đời sống cầu nguyện và hoạt động cầu nguyện của người đó bao nhiêu, thì sự hiện diện của Mẹ càng trở nên con số “zêrô” đối với kinh nghiệm cảm giác bấy nhiêu. Sẽ có ngày những người có kinh nghiệm kia tự hỏi đâu là trường hợp chung cho nhiều người trong họ, ngay cả khi họ rất yêu mến Đức Trinh Nữ Đồng Trinh, nhất là khi họ cảm thấy mãnh liệt sự hiện diện của Mẹ lúc bắt đầu cuộc đàm thoại thiêng liêng.
Lý do của sự vắng mặt có tính cảm giác này nằm ở trong chính bản tính của Đức Maria và hành động của Mẹ. Trước tiên là Mẹ muốn xoá mình đi để nhường lại chỗ cho Con của Mẹ. Vì thế, những ai đã quyết định tận hiến cho Mẹ Maria trong đời sống cầu nguyện thì họ không có gì phải sợ khi phải nhường một điều gì đó cho Chúa bởi vì cái độc đáo nơi Mẹ Maria là tự xoá mình đi để cho Thiên Chúa là Thiên Chúa nơi chúng ta. Thánh Grignion de Montfort nói: “Khi bạn gọi: “Mẹ Maria”, thì Mẹ sẽ trả lời: “Chúa đây”. Mẹ chỉ hiện diện ở đàng sau thôi.
Vấn đề được đặt ra ở đây là: sự hiện diện mạnh mẽ này không thể cảm nhận bằng giác quan, nên cách này hay cách khác họ cần phải có một ý thức nào đó về sự hiện diện này, nếu không, lời cầu nguyện của Chúa Thánh Thần đó chỉ là cái nhìn thuộc trí tuệ hoặc từ ngữ mà thôi. Quả thật, tôi tin rằng khi cảm nhận ở một mức độ khác với mức độ liên quan đến cảm giác, thì cảm nhận sẽ rõ ràng hơn, bởi lẽ nó đụng tới hành động cầu nguyện của chúng ta. Khi Mẹ Maria ở với người tín hữu nào, thì người ấy cầu nguyện với Mẹ càng lúc càng nhiều hơn, hoặc nghiệm thấy rằng Mẹ luôn cầu nguyện cho mình. Cũng như đối với sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong chúng ta, nhất là khi người ta cảm nghiệm được Người đang cầu nguyện bằng những tiếng rên siết khôn tả; cũng thế đối với Đức Maria, Đấng luôn gắn bó với Chúa Thánh Thần, như thánh Grignion de Montfort nói: “Khi Chúa Thánh Thần thấy Mẹ Maria trong một tâm hồn nào đó thì Ngài chạy và bay tới đó.” Chúng ta cảm nghiệm được tình yêu và sự gắn bó của chúng ta đối với Mẹ Maria khi chúng ta cầu xin với Mẹ càng ngày càng nhiều hơn. Nhưng lời cầu nguyện này không có gì liên quan tới những biểu lộ mang tính cảm giác cả. Sở dĩ ta dám nói với Mẹ Maria rằng ta yêu Mẹ bởi vì ta rất ít cảm nhận được tình yêu của Mẹ. Nhưng như những đứa trẻ ra dấu cho mẹ chúng, để gọi bà đến giúp chúng thế nào, thì ta cũng thốt lên những tiếng gọi, được lập đi lập lại trong khi lần hạt. Như thế ta sẽ nguyện ngắm với Mẹ Maria trong khi lần hạt. Nhưng chúng ta nên nói một chút rằng lần hạt là phương tiện ngắn gọn để nối kết chúng ta với Mẹ Maria và gọi Mẹ đến cứu giúp chúng ta như Mẹ đã làm cùng một cách như thế ở nhà Tiệc Ly khi Mẹ kêu xin Chúa Giê-su phái Thánh Thần xuống. Nếu nhìn từ phía bên ngoài, lần hạt có vẻ ngớ ngẩn và hoàn toàn máy móc. Thường có như thế khi lần hạt, cho dù với ý muốn tốt lành nhất, nhưng đồng thời đó là kinh nguyện của người nghèo và những kẻ bé mọn. Và ta biết rằng Đức Trinh Nữ rất hài lòng về việc lần hạt, bởi lẽ khi ấy người ta sử dụng chính những lời của Thiên Chúa để chào Mẹ và tuyên xưng sự thánh thiện của Mẹ. Thường thường ta không nghĩ đến điều ta đọc, vì những biến động của tinh thần làm cho chia trí, nhưng người ta cảm thấy hạnh phúc khi được ở bên Đức Trinh Nữ nửa giờ, giống như khi ta mang niềm vui đến cho một người bệnh nào đó mà ta thăm viếng. Còn có cái gì hơn nữa. Sau mỗi chuỗi năm mươi kinh, và đúng hơn, sau một tràng một trăm năm mươi kinh, người ta cảm thấy không còn như trước nữa, có cái gì đó đã thay đổi trong tâm hồn. Ta trở nên nghèo nàn hơn, nhỏ bé hơn, cạn kiệt hơn và như vậy có chút gì đó gần với sự qui hàng trước tình yêu của Thiên Chúa đang chiếm dần chỗ trong tâm hồn chúng ta.
Lời cầu nguyện của Đức Maria
Tôi thường tự hỏi Đức Maria đã không cầu nguyện bằng cách đó sao. Chắc hẳn có một sự khác nhau căn bản giữa việc cầu nguyện của Mẹ trong thời kỳ Chúa Giê-su sống tại thế và từ khi Chúa sống lại. Chúng ta gợi lên đời sống của Đức Maria, chúng ta thường không quan tâm đủ tới biến cố làm đảo lộn đó: mầu nhiệm Sống Lại. Bossuet nói rằng sau biến cố Phục Sinh, đời sống Đức Maria là một phép lạ thường hằng, bởi lẽ nó mang lấy một khối vinh quang không thể chịu nổi đối với bản tính nhân loại yếu hèn và ngài xác quyết : việc Mẹ lên trời không phải là một phép lạ, nhưng là sự kết thúc của một phép lạ.
Các biến cố trong cuộc đời của Chúa Giêsu đã mang tất cả trọng lượng và cường độ của chúng sau khi Ngài sống lại. Chính lúc đó mà chúng trở thành, trước là đối tượng của lời loan báo, và sau đó mới được viết ra bởi các tác giả Tin Mừng. Cũng cần phải nói như thế đối với tất cả các biến cố trong đời sống của Mẹ Maria, điều mà ta gọi là Tin Mừng về thời thơ ấu: truyền tin, thăm viếng, việc Chúa Giê-su sinh ra và tất cả các biến cố trong đời sống ẩn dật, kể cả chuyện Mẹ dâng Chúa vào đền thánh. Điều đó không loại bỏ tính chân thật và lịch sử của các biến cố này, nhưng chúng thực sự đã trở nên đối tượng cho lời cầu nguyện lúc Mẹ Maria đã đón nhận Thần Khí Phục Sinh, đã đi vào trong sự hiểu biết thiêng liêng đối với các chặng đường trong cuộc đời của Chúa Giê-su. Mẹ đã phải ôn lại các biến cố ấy trong ký ức của tâm hồn, đưa chúng vào trong lời cầu nguyện, như chính những lời của thánh sử Lu-ca: “Mẹ Maria đã ghi nhớ tất cả những biến cố ấy và suy niệm trong lòng” (Lc 2,19.51). Người ta muốn nói rằng lời cầu nguyện của Mẹ Maria sau phục sinh đã là một sự suy gẫm lâu dài, mãnh liệt và sâu sắc về các biến cố trong đời sống của Con Mẹ qua những chặng đường của Người, đó là chính đối tượng cho việc cầu nguyện bằng kinh Mân Côi. Có khi tôi hài hước nghĩ rằng nền tảng cho lời cầu nguyện của Mẹ Maria được thiết lập do kinh Mân Côi. Phần thứ nhất của kinh Kính Mừng, Mẹ đã ghi nhớ những lời được thốt ra bởi thiên thần Gabriel, bà Elisabeth, các mục đồng, các nhà chiêm tinh, ông Simeon và bà Anna, và trong phần thứ hai, Mẹ cầu bầu cho Giáo Hội mới khai sinh để Chúa Giê-su còn gặp được lòng tin khi Ngài trở lại trên mặt đất này.
Ở Lộ Đức, thánh nữ Bernadette thấy Mẹ Maria cầu nguyện với kinh Mân Côi và đọc phần một: “kính mừng Maria…”
Trước phục sinh lời cầu nguyện của Mẹ Maria phải giống với lời cầu nguyện của Chúa Giê-su, Con Mẹ và của tất cả những người Do-Thái siêng năng đến hội đường và lên đền thờ Giêrusalem hàng năm. Dầu sao cũng cần phải ghi nhận rằng với bản tính nguyên thủy, Mẹ Maria đã cầu nguyện cách tự nhiên ngay cả khi Mẹ không ý thức chuyện đó, giống như tổ tiên chúng ta đã được đặt vào trong vườn địa đàng để canh tác, nghĩa là bằng cả cuộc sống của mình, họ phải làm một sự thờ phượng thiêng liêng và đó là ý nghĩa của từ “canh tác”. Họ có khả năng cầu nguyện luôn luôn, và khả năng đó họ có cách tự nhiên, điều mà chúng ta đã đánh mất do sự sa ngã của nguyên tổ. Cũng thế, Mẹ Maria đã cầu nguyện như Mẹ thở vậy, và toàn bộ đời sống của Mẹ là một sự thờ phượng đối với Thiên Chúa. Chắc hẳn Mẹ đã không ý thức chuyện đó, như Cassien nói về người đã đạt đến sự cầu nguyện không ngừng như sau: “Anh ta cầu nguyện luôn luôn, nhưng anh ta không còn ý thức rằng mình đang cầu nguyện”.
Đã có một sự xoay chuyển với biến cố Phục Sinh. Ít ra cũng có điều mà thánh Lu-ca cho chúng ta biết qua hai câu Kinh Thánh nói rõ về việc Đức Maria cầu nguyện. Và nếu thánh Lu-ca cho chúng ta hai chỗ để đối chiếu trong cùng những từ, thì chắc chắn vì những từ này mở đường cho ta đi vào sự suy ngắm của Đức Nữ Đồng Trinh. Đối với tôi, chúng luôn xuất hiện như là hai câu quan trọng nhất của Tin Mừng đề cập tới lời cầu nguyện của Đức Nữ Đồng Trinh.
* Câu thứ nhất: “Còn bà Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng” (Lc 2,19).
* Câu thứ hai: “Riêng Mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng” (Lc 2,51).
Có lẽ cần phải vẽ lại khung cảnh mà Mẹ Maria sống sau biến cố Phục Sinh. Chúng ta thấy ngay từ khi Chúa Giê-su lên trời Mẹ đã ở giữa cộng đoàn mười một Tông Đồ và các môn đệ bao xung quanh. Mẹ cũng ở giữa Giáo Hội và đảm bảo cho sự liên kết giữa các thành viên. Bởi vì Mẹ là mẹ của Chúa đã được đưa vào vinh quang, và vì tính cách gần gũi này mà Mẹ giữ một chỗ đặc biệt trong cộng đoàn Giáo Hội sơ khai. Mặt khác, trên thập giá Chúa Giê-su đã trao phó Mẹ cho một người bạn thân tín nhất, người đã đưa Mẹ về nhà mình. Thánh Gio-an cũng được xem như là người gần gũi với Chúa bởi vì ngài dựa vào lòng Chúa ở nhà Tiệc Ly và đã đón nhận những tâm tư sâu kín của Người.
Chính trong khung cảnh sốt sáng sơ khai đó mà phát sinh ra những bài tường thuật về việc truyền tin, việc sinh ra và lớn lên của Đấng Cứu Độ. Thánh Lu-ca cho chúng ta biết chuyện đó khi nói rằng Mẹ Maria giữ gìn tất cả những chuyện đó trong lòng, hiểu ngầm là cho tới khi những điều đó được thực hiện. Các nhà chú giải nói với chúng ta rằng hai câu Kinh Thánh trên là một cấu trúc mang tính khải huyền, nghĩa là nó gợi lên những biến cố chắc chắn đã xảy ra, nhưng người ta chỉ có thể hiểu được ý nghĩa tối hậu của nó sau khi Chúa được tôn vinh. Vào lúc mà các biến cố đó đã được loan báo và đã được thực hiện, thì Mẹ Maria không có ý thuật lại và hơn nữa không có ý viết ra, bởi lẽ mẹ chỉ là một người đàn bà đơn sơ, nghèo hèn, không có kiến thức bao nhiêu; chắc Mẹ biết đọc, nhưng không thể có khả năng viết ra. Hơn nữa việc đó sẽ chẳng có ý nghĩa gì cả bởi vì Chúa chưa được tôn vinh. Nếu người ta cho phép tôi làm sự so sánh sau đây, một sự so sánh không theo tiêu chuẩn nào, với biến cố của Chúa Ki-tô, thì ta thấy không ai có ý tưởng viết lại cuộc đời của Napoléon trong khi ông còn là con nít. Phải chờ cho đến khi ông đi vào trong lịch sử thì người ta mới quan tâm đến nguồn gốc, sự lớn lên và nền giáo dục của ông.
Cách nào đó, đấy cũng là điều đã xảy ra với Chúa Ki-tô. Ngay khi Người sống lại do quyền năng của Chúa Thánh Thần và được đưa vào trong vinh quang của Cha vào ngày Người lên trời, thì người ta mới bắt đầu trở về với những biến cố quá khứ và tìm lại trong các thời kỳ đầu tiên này, các bằng chứng gốc gác thần linh của Người. Vì thế Mẹ Maria đã có thể tường thuật lại biến cố Truyền Tin đã xẩy ra trong trật tự bình thường của các sự kiện, khi người ta biết được điều đã xảy đến với Chúa Ki-tô sau cái chết của Người. Nếu người ta tin vào quyền năng đã làm cho Chúa Giê-su sống lại từ trong kẻ chết, thì không còn khó khăn gì nữa để tin vào nguồn gốc thần linh của Chúa Giê-su, và nhất là tin vào sức mạnh của Chúa Thánh Thần trên đổ xuống Đức Nữ Đồng Trinh Maria và đã tạo trong lòng Mẹ thân hình Chúa Ki-tô. Nếu người ta tin vào sự sống lại của Chúa Giê-su, bởi lẽ Người là Con Thiên Chúa, thì cũng phải tin rằng Con- Người-Thiên -Chúa này đã được sinh ra bởi một người nữ. Và do đó mà xuất hiện các bài tường thuật về cuộc đời thơ ấu của Chúa Ki-tô .
Chắc chắn Gio-an và Lu-ca phải xin Đức Nữ Đồng Trinh kể về đứa trẻ mầu nhiệm mà sau này đã trở thành Chúa vinh quang. Chính vì vậy mà có hai câu của thánh Lu-ca về sự suy ngắm trong lòng của Mẹ Maria. Sau biến cố Phục Sinh, và nhất là ở biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống, Mẹ Maria đã phải giữ tất cả những kỷ niệm đó trong thinh lặng của tâm hồn. Ngày qua ngày, Mẹ đã sống trong sự nghiền ngẫm những kỷ niệm đó với tất cả ý nghĩa của chúng, dưới tác động của Chúa Thánh Thần và đó là đối tượng cho việc cầu nguyện của Mẹ, tất cả tập trung vào Đấng Cứu Độ. Chúa vinh quang đã trở nên trung tâm cho đời sống của Mẹ.
Lời của thiên thần Gabriel “Không có gì mà Thiên Chúa không làm được”, lúc ấy đã nhận được mặc khải trọn vẹn. Vào lúc mà Mẹ đón nhận lời nói đó khi truyền tin, Mẹ đã tin một cách tuyệt vời rằng, Thiên Chúa có thể cho Chúa Giê-su sinh ra từ thân xác đồng trinh của Mẹ, như Người đã có thể cho Gio-an Tẩy Giả sinh ra từ một người nữ son sẻ. Hôm nay Mẹ đã thấy điều đó được thực hiện tròn đầy trong sự sống lại của Chúa Giê-su. Thần Khí là sức mạnh toàn năng của Thiên Chúa. Đối với Người, không có gì là không có thể.
Lúc bấy giờ lời kêu xin của Mẹ Maria đã được tăng lên gấp bội. Trong những ngày cưu mang Chúa Giê-su, Mẹ cũng đã kêu xin rồi, bởi vì mọi sự đều có thể đối với Thiên Chúa; nhưng sau ngày phục sinh, chính Thần Khí chiếm đoạt lời kêu xin của Mẹ và mặc cho nó một cường độ và một sức mạnh có thể lật nhào đồi núi. Nói tóm lại, đó là lời kêu xin của Chúa Thánh Thần trong Mẹ. Chính vì vậy mà lời cầu nguyện của chúng ta với Mẹ Maria, phải luôn luôn là lời kêu van như mục đích tối hậu, bởi vì Đức Nữ Đồng Trinh là sức mạnh toàn năng đang kêu van.
Như thế trong lời cầu nguyện của mình, Mẹ Maria đã nhớ lại tất cả các biến cố về đời sống Chúa Giê-su như chúng ta suy ngắm các biến cố ấy khi chúng ta cầu nguyện bằng kinh Mân Côi. Chắc chắn, Mẹ đã giữ lại nhiều biến cố khác, nhưng điều thiết yếu, đó là Chúa Giê-su lớn lên trong lòng Mẹ, bằng lòng tin, tất cả giống như thánh Lu-ca xác định rằng Người đã lớn lên về tuổi tác, kích thước và sự khôn ngoan trước mặt Thiên Chúa và người ta. Thánh nữ Tê-rê-sa Hài Đồng Giê-su yêu mến cách đặc biệt mầu nhiệm Truyền Tin, bởi vì lúc đó Chúa Giê-su là người nhỏ nhất trong lòng Mẹ Maria.
Như vậy việc cầu nguyện bằng kinh Mân Côi được diễn tả trong sự suy ngắm của Mẹ Maria, và chúng ta hãy để cho Chúa Giêsu sinh ra, sống và lớn lên trong tâm hồn chúng ta nhờ vào lòng tin, cũng như chúng ta thông chia các đau khổ của Người khi chúng ta cầu nguyện với mầu nhiệm thương khó của Người. Cũng vậy, dưới tác động của Chúa Thánh Thần, chúng ta cầu nguyện với các mầu nhiệm mừng vui, và Chúa Giêsu cho chúng ta kinh nghiệm được sức mạnh của việc Người sống lại. Như thế những ai mỗi ngày cầu nguyện bằng kinh Mân Côi, thì tự đặt mình vào trong trường học cầu nguyện của Mẹ Maria và để cho mình sinh ra trong đời sống thần linh nhờ Chúa Kitô, Đấng đang sinh ra, đang đau khổ và đang sống lại trong họ. Như vậy họ được nên một với Chúa Giêsu bởi lời cầu nguyện của Người, mà chúng ta đã bàn đến ở chương trước.
Thuộc trọn vào lời cầu nguyện của Mẹ Maria
Những ai cảm thấy được kêu gọi hiến dâng trọn vẹn để cầu nguyện cho thế giới, để Con Người còn tìm thấy lòng tin khi trở lại trên trái đất này, thì họ phải được bao trùm hoàn toàn bằng lời cầu nguyện của Mẹ Maria, Đấng đã bắt đầu và kết thúc cuộc đời trong cầu nguyện. Nhất là họ không tìm cách biện hộ khi người ta nói lời cầu nguyện này chỉ là ảo tưởng hoặc cầu nguyện như thế không đủ. Đừng biện hộ, bởi lẽ ơn gọi của họ đến từ trên cao và chỉ mình Cha mới có thể quyết định về ơn gọi đó. Họ cũng không cần tìm cách cầu nguyện, hay bận tâm phải cầu nguyện bao nhiêu giờ. Cũng chẳng cần để ý tới việc cầu nguyện trong trí hay đọc thành lời. Điều đó sẽ được ban cho vào thời gian thích hợp. Họ chỉ cần dâng mình cho việc cầu nguyện, như con chó nhỏ nhảy xuống nước phải bơi để cứu mạng sống mình thôi. Nếu người ta hỏi tại sao họ cầu nguyện, cầu nguyện cho ai! Nếu đó là điều hữu ích cho cầu nguyện, hãy trả lời cách đơn sơ: “ Tôi cầu nguyện bởi vì Thiên Chúa là Thiên Chúa và Người xin tôi điều đó”. Đừng bao giờ tìm cách cầu nguyện sao cho hay. Làm như vậy, họ sẽ chẳng bao giờ cầu nguyện. Hãy cầu nguyện luôn, không bao giờ mệt mỏi, không bao giờ nản chí.
Tận hiến cho Mẹ Maria là làm sao? Thánh Louis Grignion de Montfort trả lời: “ Chúng ta phải đưa tất cả lời cầu nguyện của mình vào trong phòng cầu nguyện là tâm hồn của Mẹ Maria”. Nghĩa là khám phá ra căn phòng cầu nguyện đó và chúng ta ở trong tâm hồn Mẹ như Thánh Gioan đã đưa Mẹ về nhà mình sau ngày Phục sinh. Nói cách khác, chúng ta phải có kinh nghiệm về sự gần gũi với Mẹ Maria, về sự hiện diện của Mẹ bên cạnh chúng ta ( như chúng ta đã nói điều này khi bàn về Thầy Mutien- Marie ), về việc Mẹ biết chúng ta cách sâu sa và thân mật, đến nỗi chúng ta chẳng cần phải nói gì với Mẹ. Mẹ luôn sẵn sàng đón nhận những ước mơ nhỏ bé và lời cầu xin hết sức tầm thường của chúng ta. Phần chúng ta, cách đơn giản là cầu nguyện với Mẹ, kêu van Mẹ ngay khi chúng ta có thời giờ rảnh rỗi. Cùng với Mẹ, chúng ta sống Bí tích Thánh Thể, đọc thần vụ và nguyện ngắm dưới ánh mắt Mẹ. Chính trong kinh Mân Côi, mà chúng ta được hoàn toàn ngập chìm trong một loạt các Mầu nhiệm mà Thánh Thần gợi lên trong chúng ta. Khi ấy đừng kết thúc việc đọc kinh, nên thêm vào, chẳng hạn việc suy ngắm các biến cố về cuộc đời Chúa Giêsu trong tâm hồn Mẹ, hay lời cầu nguyện của Mẹ ở nơi nhà Tiệc Ly. Tôi thích cách đặc biệt lời sau đây của Chúa Giêsu nói với Thánh Gioan: “ Đây là Mẹ con”. Nhất là khi Chúa Thánh Thần cho chúng ta được hưởng nếm tình mẫu tử đích thực Mẹ. Chúa Giêsu còn tuyên bố Mẹ Người là người có phúc vì đã lắng nghe lời Chúa và đem ra thi hành. Tất cả những lời đó nuôi dưỡng lời cầu nguyện của chúng ta và làm cho chúng ta có thói quen đi theo Mẹ. Nhưng nền tảng của lời cầu nguyện của chúng ta, lời cầu nguyện mà chúng ta phải quay về như thể bị sức mạnh nào đó thu hút, đó là lời kinh Mân côi và nhất là phần thứ hai của kinh Kính Mừng: “ Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời , cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tử”.
Vài người thật có lý khi tự hỏi, cái gì cũng hoàn toàn bởi Mẹ Maria, thì còn đâu là phần của Thiên Chúa? Chúng ta thường khởi đầu cầu nguyện theo cách phân chia sau đây: Trước tiên là cầu nguyện với Chúa Thánh Thần để Người ban cho chúng ta ơn cầu nguyện, sau đó chúng ta quay sang Chúa Kitô, Đấng duy nhất trong Ba Ngôi cầu nguyện và dạy chúng ta cầu nguyện. Rồi như Chúa Giêsu dạy, chúng ta đặt mình dưới cái nhìn của Chúa Cha là Đấng nhìn thấy trong nơi bí ẩn để cầu nguyện với Người. Chỉ sau đó chúng ta mới bắt đầu cầu nguyện với Mẹ Maria và thường chúng ta xin Mẹ chuyển những lời cầu nguyện của chúng ta lên Con Mẹ. Vậy là tôn ti trật tự của việc cầu nguyện được tôn trọng rất bài bản.
Những người quyết định tận hiến mình trong lời cầu nguyện của Mẹ Maria thì họ không đi theo cách thức này. Không theo một lược đồ được phân chia, họ đi thẳng đến với Mẹ Maria để cầu nguyện với Mẹ, họ biết rất rõ lời cầu nguyện của mình đều hướng về một mình Thiên Chúa. Không chọn lựa, họ để cho Mẹ Maria đưa lời cầu nguyện của họ lên mỗi Ngôi trong Ba Ngôi Thiên Chúa, như Mẹ muốn, và nhất là theo như duy mình Mẹ biết. Mẹ cầu nguyện với họ và cho họ. Chính trong Mẹ mà họ cầu nguỵên.
Hậu thuẫn cho cách cầu nguyện này, còn có một xác tín của thánh Grignion de Montfort: “ Khi bạn cầu nguyện với Mẹ Maria, Mẹ trả lời: Chúa đây”. Mẹ Maria không giữ lại cho mình bất cứ lời cầu nguyện nào, vì Mẹ hoàn toàn trong suốt và biết rất rõ những ơn lành không đến từ Mẹ, nhưng từ Cha của nguồn ánh sáng mà từ đó mọi ân sủng được đổ xuống. Những ai cầu nguyện với Mẹ theo cách này, thì họ không đưa ra những lý luận, nhưng xác tín rằng Mẹ Maria là Đấng van xin toàn năng, và họ phải nhờ Mẹ mà cầu nguyện với Chúa Cha. Dưới sự thúc đẩy của một năng khiếu được Chúa Thánh Thần gợi lên, họ xác tín như vậy và nhận ra rằng chắc chắn đó là cách thức cầu nguyện tốt lành.
Vả lại, đây không phải là cách thức cầu nguyện có tính trường kỳ. Đó có thể là cách thức mà chúng ta chỉ sử dụng trong vài ngày. Như thánh nữ Têrêsa thành Lisieux, sau khi được ân sủng mà ngài đã nhận lúc mới bắt đầu đời sống tu trì, chúng ta có thể nói rằng trong thời gian một tuần, thánh nữ đã sống dưới sự che chở đặc biệt của Mẹ Maria và thánh nữ dường như không còn ở trên trái đất này nữa, đến nỗi ngài làm đủ thứ việc mà như không làm gì vậy. Đối với những ai, bất luận nam nữ, muốn đón nhận ân sủng và sống trong sự bao bọc hoàn toàn bởi lời cầu nguyện của Mẹ Maria cũng thế. Không ở dưới áo Mẹ, nhưng họ sống trong con tim của Mẹ, và chính ở đó mà Mẹ đón nhận tất cả lời cầu xin của họ.
Điều đó có thể diễn ra một thời gian ngắn hoặc dài, có khi chỉ vài ngày hoặc ngay cả trong vòng một giờ nguyện ngắm, rồi chấm dứt, không còn thấy sự hiện diện gần gũi của Mẹ Maria nữa. Mẹ dường như ở xa. Đôi khi người ta tự hỏi không biết mình còn yêu mến Mẹ nữa không hoặc mình đã làm gì để không còn nhận thấy sự hiện diện của Me nữa. Chúng ta không có gì mà phải tự trách mình cả, điều đó không lệ thuộc nơi chúng ta, nhưng là nơi Chúa, Đấng ban cho chúng ta ơn đó khi Người muốn và như Người muốn. Người hoàn toàn tự do. Đó là qui luật của đời sống cầu nguyện. Cần sẵn sàng sống với những đổi thay và không được áp đặt cho Thiên Chúa những ý tưởng của chúng ta. Nhưng cũng phải biết đón nhận trong niềm vui và tạ ơn, những gì Người ban. Sau một ơn ban như thế, có thể là một thời kỳ khô khan hoặc một ơn ban khác. Đùng một cái chúng ta cảm nếm được mình sống dưới cái nhìn của Cha mà từ đó phát xuất ra những ân huệ hoàn hảo. Và chúng ta mở tay ra để đón nhận tất cả, không cần phải biết bắt đầu thế nào: tạ ơn hay kêu cầu. Thực sự lời cầu nguyện của Chúa Thánh Thần không thể thấy trước được, và chúng ta phải chờ đợi mọi sự, nhất là những điều bất ngờ.
Điều đó dạy cho chúng ta đừng có quá lo điều khiển lời cầu nguyện của mình, nhưng chúng ta hãy để cho chính Thiên Chúa và Thần Khí của Người hướng dẫn chúng ta như Người muốn. Không bảo là mình đã nắm được chân lý, nhưng tôi tin rằng việc hướng dẫn chúng ta cầu nguyện trong từng chi tiết của cuộc đời, là ơn Mẹ Maria ban cho chúng ta chứ không phải là từ Chúa Thánh Thần. Những ai đã dâng cho Mẹ tất cả, đã tận hiến hoàn toàn cho Mẹ thì họ phải chờ đợi điều Mẹ can thiệp: khi nào Mẹ nghe điều đó và lúc nào Mẹ muốn điều đó. Chúng ta không còn là thầy dạy cho đời sống của mình nữa. Chính Mẹ hướng dẫn chúng ta như người hoa tiêu thay chỗ thuyền trưởng ở buồng lái của con tàu, khi phải vượt qua kênh đào Suez.
Bảo đảm và cho chúng ta một sự chắc chắn tuyệt đối trong niềm vui phó thác, là biết rằng mình được bàn tay vô cùng tốt lành của Mẹ dẫn dắt, không có gì xấu có thể xảy đến với chúng ta. Nhưng chúng ta phải hết sức cẩn thận, đừng cưỡng lại sự hướng dẫn của Mẹ trong những điều nhỏ mọn, những lời khuyên nhủ hằng ngày. Phải vâng theo từ những dấu chỉ rất nhỏ, nếu không, Mẹ sẽ cho chúng ta thấy hậu quả những chống đối và bất tuân của chúng ta. Đó là ân huệ lớn lao khi để cho Mẹ Maria hướng dẫn, nhất là trong lời cầu nguyện và trong đời sống, bởi vì chúng ta cảm thấy rõ, đó không chỉ là hành động của chúng ta được ghi dấu bởi dấu ấn của Mẹ, nhưng chính hữu thể sâu thẳm của chúng ta đã hoàn toàn thuộc về Mẹ.
3.ĐÊM NGÀY HỌ KÊU LÊN CÙNG THIÊN CHÚA.
Nếu tôi phải chọn một lời để tiếp cận với cái bí mật nhất của đời sống, thì tôi sẽ chọn lời của Chúa Giêsu trong dụ ngôn về người đàn bà góa quấy rầy: Chẳng lẽ Thiên Chúa không kíp giải oan cho những kẻ Người chọn đêm ngày kêu cứu Người sao? Chính trong lời này mà tôi nhận ra rõ nhất khuôn mặt cuả tôi theo nghĩa mà Lamartin viết : “ Con tim tôi có bí mật của nó, tâm hồn tôi có mầu nhiệm của nó”. Lời cầu nguyện thật sự là bí mật của đời tôi. Khi xác định điều đó, lập tức buộc tôi phải thêm ngay rằng, lời cầu nguyện cũng là mầu nhiệm của tâm hồn tôi. Nói như thế là tôi đã nói tất cả, nhưng lại là không nói gì. Với kinh nghiệm, tôi biết rằng lời cầu nguyện đã là tất cả, đó là nguồn vui lớn lao nhất của tôi. Không ở đâu tôi được hạnh phúc cho bằng khi cầu nguyện. Chính trong cầu nguyện mà tất cả đau khổ tiêu tan đi. Không cầu nguyện, không biết tôi sẽra sao, rất có thể là tôi sẽ mất trí. Không biết đến bao giờ tôi mới nói cho đủ rằng cầu nguyện là tất cả đối với tôi, cầu nguyện là sức sống cho cuộc đời tôi.
Đồng thời, tôi buộc phải nhận ra rằng, cầu nguyện là một mầu nhiệm. Không một từ ngữ, một ý tưởng, một hình ảnh nào có thể diễn tả được điều đang xảy ra trong tâm hồn tôi khi tôi được ơn cầu nguyện. Lúc đó tôi không còn biết mình là gì nữa, nhưng khi ơn cầu nguyện không còn, thì tôi lại biết rõ tôi là ai ! Cũng không thể nói đâu là cách cầu nguyện của tôi. Đơn giản, tôi chỉ biết rằng khi có ơn cầu nguyện thì tôi cảm thấy niềm vui tràn ngập tâm hồn tôi. Đó chính là một mầu nhiệm lớn lao. Tôi không thể chuẩn bị hoặc thấy trước lời cầu nguyện của tôi, ngay cả lúc bắt đầu cầu nguyện, thì tôi cũng không bao giờ biết phải cầu nguyện thế nào. Cũng thế, căn bản lời cầu nguyện của tôi từ lâu nay, đó là sự chuyển cầu và kêu van – điều này đã nói rồi, nhưng tôi sẽ còn nói nữa – và một ngày nào đó, việc cầu thay nguyện giúp này dọn chỗ cho cầu nguyện phó thác, thờ lạy, tạ ơn và hoàn toàn đặt mình vào bàn trong tay của Cha.
Và điều đó luôn phụ thuộc vào những biến cố hoặc những hoàn cảnh trong đời sống của tôi. Cách đây mười ngày khi nghe bác sĩ khuyên nên theo phương pháp trị liệu bằng hóa học, tôi rất khó chịu. Tệ hơn nữa những lần kiểm tra khác nhau về bệnh ung thư cho thấy tôi vẫn bình thường. Để an toàn, bác sĩ khuyên tôi nên theo phương pháp trị liệu ấy. Phải thú nhận đó là một cú sốc đối với tôi, và tức khắc tôi nghĩ đến bí tích xức dầu bệnh nhân.
Lẽ ra việc cầu nguyện của tôi có thể bị lộn xộn hoặc ngay cả không thể thực hiện được. Nếu không đi đến đó, thì nó cũng có thể mang hình thức một sự chuyển cầu để chạy trốn hiểm nguy. Tôi hết sức ngạc nhiên là lời nguyện giúp cầu thay ấy đã có trong tâm hồn tôi ngay khi tôi bắt đầu cầu nguyện. Tôi không thể cầu nguyện hay đúng hơn mắt tôi được mở ra hướng về người Cha đầy lòng xót thương, chính từ Người phát sinh mọi ơn lành. Theo một nghĩa nào đó tôi tạ ơn Người, nhưng đồng thời tôi biết rằng Người ban cho chúng ta những ơn ngoài sức chúng ta có thể cầu xin hoặc tưởng tượng ra. Chỉ còn mỗi việc mở tay ra nhận những gì Cha muốn ban cho và lời cầu nguyện cứ trào lên cách tự nhiên. Đó là lời cầu nguyện phó thác của cha Foucauld. Lời cầu nguyện như vậy ở với chúng ta mọi lúc, và khi rảnh một chút là tôi muốn cầu nguyện theo cách này.
Chúng ta kêu van đêm ngày và Người sẽ mau chóng đáp lời
Nhận ra rằng thực sự Thiên Chúa dựng nên tôi để tôi cầu nguyện và không có gì có thể ngăn chặn được sự cầu nguyện trong tâm hồn tôi, ngay cả cái chết cũng không. Điều đó có vẻ tự phụ, hay hơi kiêu ngạo; tuy nhiên đó là sự thật. Tôi tin mình vẫn tiếp tục cầu nguyện sau khi chết, cho tới ngày Chúa kitô trở lại để Người còn thấy niềm tin trên trái đất này. Tôi cũng đoan chắc rằng với những ai đến cầu nguyện bên cạnh tôi hoặc nhớ đến tôi trong lời cầu nguyện thì tôi sẽ mang lại cho họ ơn cầu nguyện và nguyện ngắm, và tôi làm điều đó dù tôi là con người đầy tội lỗi và yếu đuối. Để được vậy, tôi không cậy vào công trạng của tôi, vì lẽ tôi không thật có gì cả. Vả lại tôi cũng không muốn có, nhưng trong suốt cuộc đời tôi, Chúa đã ban cho tôi ơn cầu nguyện cách nhưng không, và nhiều người cảm thấy ơn này xảy ra nơi họ ngang qua hay nhờ trung gian những cuốn sách của tôi. Tôi tin chắc rằng tôi sẽ tiếp tục sứ mệnh này bằng lời cầu nguyện từ trên cao.
Tôi nhận được ơn gọi cầu nguyện này trong niềm tin tinh tuyền và trơ trụi. Để hướng dẫn mình và nâng đỡ mình trên con đường này, tôi chỉ có thể dựa vào ngọn lửa bé nhỏ đang chiếu sáng trong tâm hồn chưa bao giờ tắt, ngay cả trong những lúc thời tiết xấu nhất. Tôi phải sống một mình với ơn gọi này vì nó luôn là sự khó hiểu, bởi vậy nhiều người nghĩ rằng tôi sẽ có ích hơn nếu chỉ thi hành chức vụ bình thường. Nhưng tôi không thể làm cách khác được, bằng không, tôi sẽ phản bội lại tiếng nói đang thì thầm trong tôi. Và khi tôi lìa bỏ trái đất này, vài người sẽ tự hỏi tôi đã có thể đã làm được gì tốt nào. Càng hay, vì tôi được sống ơn gọi cầu nguyện này trong thinh lặng và kín đáo hơn. Thực sự tôi đã cố gắng sống ẩn giấu với Chúa kitô trong Thiên Chúa và có được cuộc trao đổi trên các tầng trời. Hôm nay tôi không lấy làm tiếc vì đã hiến toàn thân cho việc cầu nguyện, tôi chỉ tiếc là không trung thành đủ và đã không đi cho đến cùng ơn gọi này. Nhưng không bao giờ là quá trễ để khởi sự lại với ân sủng của Chúa Thánh Thần và sự trợ giúp của Mẹ Maria.
Đối với tôi thật khó mà viết ra khi tôi không ở trong ơn cầu nguyện, và lúc này ơn đó lại hiếm hoi hơn. Tuy nhiên tôi rất cần ơn đó, bởi đó là thực tại duy nhất làm cho tôi sống với thử thách trong bình an. Nhưng tôi luôn xác tín rằng chính cầu nguyện là nơi thiêng liêng nhất của tôi, ngay cả khi nó xa lạ đối với những người quanh tôi.
Có lẽ đã đến lúc tôi phải xin nhận bí tích bệnh nhân. Thứ tư ngày14 tháng 11, sau khi giải tội cho tôi, bạn của tôi là Jean Pierre đã trao đổi với tôi về bí tích này. Tôi đã cầu nguyện rất nhiều theo đoạn trích sau đây của thánh Giacôbê: “Ai trong anh em đau yếu… người ấy hãy cầu nguyện, hãy mời các kỳ mục của Hội thánh đến, họ sẽ cầu nguyện cho người ấy sau khi đã sức dầu nhân danh Chúa. Lời cầu nguyện do lòng tin sẽ cứu người bệnh” ( Gc.5,14-15 ). Tất cả đoạn văn tập trung vào sức mạnh của lời cầu nguyện do lòng tin, và lúc bấy giờ thực sự lời cầu nguyện đã chữa lành tôi. Jean Pierre đã mời tôi cầu nguyện trong sự tạ ơn dựa trên bài Tin mừng theo thánh Mathêu chương 25 cùng với ánh sáng của đoạn văn thánh Giacôbê.
Nhưng đoạn trích của thánh Luca chương 18 là đoạn kinh thánh mà tôi luôn trở đi trở lại. Nó nằm trong đoạn văn mà bản dịch TOB gán cho tựa đề: “dụ ngôn về vị thẩm phán nghe lời kẻ kiên trì kêu xin”. Tôi muốn người ta để bên sau tấm hình ngày chết của tôi những lời sau đây: “ Vậy Thiên Chúa lại không bênh vực những kẻ Người đã tuyển chọn, đêm ngày hằng kêu cứu với Người sao ? Lẽ nào Người bắt họ chờ đợi mãi? Thầy nói thật cho anh em biết, Người sẽ mau chóng minh xét cho họ. Nhưng khi Con Người đến liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng? ”( Lc 18,7- 8 ). Ở đó tôi thực sự nhận ra mặt mình như là khuôn mặt mà ít ra, đã khao khát kêu lên cùng Thiên Chúa đêm ngày. Chắc chắn tôi không đạt đến đó vì sự yếu đuối của thân xác tôi, nhưng thực sự vì sự yếu đuối ấy mà một lời cầu nguyện như thế tuyệt đối cần thiết. Trong lĩnh vực này cần phải trở nên điên dại trong những ước muốn của mình, và khôn ngoan trong việc thực thi chúng; bởi vì phải luôn luôn khao khát điều không thể, để cho lời Chúa kitô sau đây có lý: “Điều không thể đối với con người thì đối với Thiên Chúa đều có thể”. Tôi tin và tôi đoan chắc rằng, những người khao khát kêu lên cùng Chúa đêm ngày sẽ kíp được nhậm lời và cò thể nói là đã được nhậm lời, bởi lẽ người ta có được tất cả những điều mà người ta xin trong cầu nguyện; càng có lý hơn khi người ta xin ơn, và là ơn cầu nguyện. Thực sự để có được ơn cầu nguyên không ngừng, thì cần phải kêu lên cùng Thiên Chúa đêm ngày. Chúng ta tìm hiểu đoạn văn trên đây kỹ hơn.
Hiển nhiên những người đêm ngày kêu lên cùng Thiên Chúa tức khắc sẽ được Thiên Chúa nhậm lời. Tôi muốn nói tiếng đáp lại của Thiên Chúa, nằm ngay trong tiếng kêu xin của người cầu nguyện. Như Chúa Giê su nói: “ Họ sẽ được nhậm lời ngay tức khắc, không chậm trễ” ( câu 8 ). Tiên tri Isaia nói: “Trước khi chúng kêu Ta, chính Ta đã đáp lời, chúng còn đang nói thì Ta đã nghe rồi ” (65 , 24 ). Còn thời gian giữa Thiên Chúa và chúng ta, không giống nhau: “…đối với Chúa, một ngày ví thể ngàn năm, ngàn năm cũng tựa một ngày” ( 2 Pr 3,8 ). Không ở trên cùng một ghi nhớ, chúng ta kêu van ngày đêm trong thời gian kéo dài, còn Người, Người đáp lại trong phút chốc. Một cái gì đó giống như trong vĩnh cửu. Chính như vậy mà xảy ra thử thách và chiến đấu trong cầu nguyện. Vì thế Thiên Chúa muốn chúng ta cầu nguyện không ngừng và không bao giờ được nản chí. Người chọn những người có khả năng làm cho những lời cầu nguyện này trở nên thiết thực và chân thật; đối với họ cầu nguyện là sự cần thiết duy nhất, là hoạt động duy nhất. Họ ghi tạc cầu nguyện liên lỉ này trong máu huyết của họ và trong thời gian mà Chúa ban cho để họ sống. Điều muốn nói là họ sống như mọi người, nhưng ngay khi có được một chút rảnh rỗi là họ chìm đắm trong cầu nguyện suốt ngày đêm. Họ phải cầu nguyện luôn, không mệt mỏi, không phải vì muốn kiếm cho mình điều mà chúng ta đón nhận rồi, nhưng để ngọn lửa không tắt phải tiếp dầu cho đèn chứ! “Lạy Cha, Con tạ ơn Cha vì Cha đã luôn nhậm lời Con”. Nhưng khi lời cầu nguyện là một luyện tập đức tin, thì tôi cũng biết rằng cần van xin mãi. Cầu nguyện là một sự kiên nhẫn trong tình yêu, cả Thiên Chúa cũng như con người, đó là một sự trổi vượt của niềm tin, và vì vậy cũng là một sự trổi vượt của lời cầu nguyện. “Nhưng khi Con Người trở lại liệu còn thấy niềm tin trên mặt đất này nữa chăng?” ( câu 8 ).
Nếu có những con người đã dốc cả đời mình vào việc cầu nguyện, thì đó là cách sống mãnh liệt niềm tin mà Chúa Giê su khao khát gặp lại nơi những ai thuộc về Người. Để hiểu điều này, cần phải đi vào trong lòng của Ba Ngôi Thiên Chúa và nên nhớ rằng, Chúa Giêsu với tư cách là con người đi tiên phong trong việc cầu nguyện không ngừng, không nản chí. Người chính là kiểu mẫu cho chúng ta, là người cầu nguyện vĩ đại nhất, là người duy nhất bầu cử lên Chúa Cha cho chúng ta (Dt 7, 25). Ở trong cung lòng của Ba Ngôi, Con không ngừng được Cha ban cho tất cả mọi sự, luôn được Cha nhậm lời, vì Người cứ mãi kêu xin. Và trên trái đất này, Chúa Gêsu vẫn không ngừng tiếp tục lời cầu nguyện ấy. Trong khi chờ đợi mọi sự từ nơi Cha, cả cuộc sống lẫn hành động của Người, Người không ngừng dâng về cho Cha tất cả vinh quang và niềm vui. Người cầu nguyện liên lỉ và từng giây phút luôn được nhậm lời. Vì lẽ đó mà Người có thể nói: “Lạy Cha Con tạ ơn Cha vì Cha đã nhậm lời Con”. Đó không phải là Người Con mà tất cả tình yêu và niềm vui của Cha đã rợp bóng trên đó sao ? Đêm ngày Người cầu xin, và Người được nhậm lời từng giây phút, ngay cả đôi khi, trong giây lát vắng bóng lời cầu nguyện. Chúa Giêsu không chỉ cầu nguyện trong suốt cuộc đời tại thế vì sự yếu đuối của thân xác Người, nhưng Người còn cầu nguyện ngay trong lòng Ba Ngôi với tư cách là Lời, bởi vì Cha luôn lớn hơn Người và ban mọi sự cho Người.
Lời cầu nguyện của Người là hơi thở thường hằng. Người xin tình yêu từ nơi Cha (tức là Thần Khí ), và ngay tức khắc Cha nhậm bằng cách ban Thần Khí cho Người. Lời cầu nguyện của Người trải dài trong mỗi một giây phút, điều đó cho phép tôi nói rằng lời đáp nằm ngay trong lời xin. Chính vì thế mà lời cầu nguyện của Người cũng đồng thời là tiếng kêu van và lời tạ ơn. Chúng ta thật khó hiểu điều đó. Một đàng, chúng ta sống trong thời gian và không thấy được điều chúng ta xin, trong khi Chúa Giêsu lại quả quyết rằng Cha luôn nhậm lời chúng ta.Với chúng ta, cầu nguyện móc vào thời gian và như vậy nó nối liền với sự kiên trì. Khi chúng ta thấy không được gì, thì điều cám dỗ nhất đối với chúng ta là hạ đôi tay xuống. Chỉ có niềm tin mới có thể giúp chúng ta đứng vững và chính vì lẽ đó mà câu hỏi làm bận tâm Chúa Giêsu ấy là: “liệu Người còn thấy được lòng tin trên trái đất khi quay trở lại không? ” Nghĩa là, liệu Người có còn gặp được những con người đang vất vả và kiên trì trong cầu nguyện để Người tin là họ đã được nhậm lời rồi không? Thử thách đức tin trong gian truân làm cho đặc tính của cầu nguyện là trung tín. Giống như sự tha thứ: người ta tha thứ một lần, hai lần, mười lần, bảy mươi lần, nhưng ngày nào đó người ta có nguy cơ ngưng, không tha nữa. Chính vì thế tôi luôn thán phục lời của Karl Rahner trong tác phẩm: “ Những tôi tớ của Chúa kitô”. Với tôi, dường như đây là định nghĩa chính xác nhất, thế nào là một người cầu nguyện: “ Chúng ta phải là người của Thiên Chúa và nói cách đơn giản hơn, phải là người có đủ can đảm để lao mình vào trong mầu nhiệm thinh lặng của Thiên Chúa, khi cứ bề ngoài, chúng ta không nhận được tiếng đáp nào khác ngoại trừ sức mạnh để tiếp tục tin, tiếp tục hy vọng, tiếp tục yêu mến và như vậy là tiếp tục cầu nguyện”.
Xét cho cùng, khi tiến cao trên đời sống cầu nguyện, người ta càng lặn sâu vào mầu nhiệm của thinh lặng của Thiên Chúa. Người ta dần dần đi vào trong thinh lặng và không biết phải nói hay phải xin gì. Tuy nhiên từ nơi sâu thẳm nhất, người ta tin rằng cầu nguyện là điều quan trọng duy nhất, là điều duy nhất có quyền đòi chúng ta dâng hiến cả cuộc đời. quả thực, lúc đó người ta đang bơi lội trong mầu nhiệm. Vấn đề lớn lúc này là sự kiên trì: “Mọi sợi tóc trên đầu anh em đã được đếm cả rồi… nhưng ai bền đỗ đến cùng sẽ được ơn cứu độ”. Tôi phải tin vào lời này, vì việc dùng phương pháp trị liệu bằng hóa học đã làm tôi rụng hết tóc ! Rất cần có khôi hài trong cầu nguyện.
Thỉnh thoảng Chúa lại gợi lên trong chúng ta một chút niềm tin và sự cầu nguyện: Nếu con người có chút niềm tin … con người sẽ cầu nguyện ! Và khi ấy chúng ta hiểu ra tội lỗi thật của chúng ta. Đức tin là cuộc chiến duy nhất trong đời sống: Tiếp tục tin rằng Cha vẫn nghe và nhậm lời trong khi người ta không thấy có tí kết quả nào.
Chính khi ấy ta cần chạy lại với đức tin của Giáo hội. Tôi nghĩ ngay đến lời kinh tốt đẹp này, lời kinh đọc trong thánh lễ ngay trước khi xin sự bình an: “Xin đừng chấp tội chúng con, nhưng xin nhìn đến đức tin của Hội thánh Chúa và xin ban cho Hội thánh được bình an”. Tôi luôn đọc thêm câu: “ Xin cho chúng con niềm vui, lòng tin tưởng và sự cầu nguyện”. Khi cầu nguyện khó khăn hay không thể cầu nguyện được, ta hãy cầu nguyện bằng lời kinh của Giáo hội. Giáo hội có ơn cầu nguyện mạnh mẽ và không ngừng. Tôi nghĩ tới lời cầu nguyện của các đan sĩ, của các vị ẩn tu, và của tất cả những người cầu nguyện trong ẩn kín; những người này đã tiêu hao cuộc đời của mình với ước muốn làm sao đưa tất cả anh em của mình vào trong sự cứu độ của Thiên Chúa – Đó là những người bạn già nua của Thiên Chúa mà thánh Gioan thánh giá đã nói đến. Chính lúc ấy tôi nếm hưởng được lời cầu nguyện của tôi như một sự tham dự vào những lời cầu nguyện đó. Lời cầu nguyện của Giáo hội chắc chắn sẽ đưa tôi đến với lời cầu nguyện của Chúa kitô trong vinh quang, Đấng trung gian duy nhất của chúng ta ( Dt 7,25 ). Nếu tôi không biết cầu nguyện thì ít ra chính Người cầu nguyện cho tôi. Còn có lời cầu nguyện của Chúa Thánh Thần trong mỗi con tim chúng ta. Tôi thích gọi Thần Khí như là Đấng thâm nhập vào tận đáy con tim, biết tất cả những ước muốn của tôi và dâng lên Cha lời cầu nguyện và lời cầu xin phù hợp với ý Thiên Chúa. Người biết cầu nguyện. Người còn biết phải xin điều gì. Và chắc chắn kế đó, có Đức Thánh Đồng Trinh. Không bao giờ tôi cần chạy đến cùng Mẹ bằng lúc này. Mỗi đêm tôi thức dậy vào giữa khuya để lần hạt với các mầu nhiệm mùa vui. Tôi tin rằng Chúa Thánh Thần và Mẹ Đồng Trinh là hai Đấng bầu cử cao cả trong việc cầu nguyện. Cũng có các thánh là những vị tôi rất yêu mến và là những người cầu nguyện luôn, thánh Giuse, thánh Têêsa thành Lisiueux, thánh Gioan Maria Vianey, thánh Benoit Joseph Labre. Tôi cũng thích giữ những ảnh kỷ niệm hay những tấm hình của những người đã ra đi trước tôi, và tôi xin họ cầu nguyện cho tôi. Họ đông lắm. Không kể đến lời cầu nguyện của tất cả các thánh trên trời dưới đất. Tôi cũng cầu nguyện với những tâm hồn đang bị bỏ rơi nhất trong luyện tội, họ là những tâm hồn rất có thế lực trong việc bầu cử. Cách nào đó, tôi là kẻ nghèo, và tôi đi tìm kiếm lời cầu nơi những ai đáng tin cậy bên cạnh Thiên Chúa.
Đôi khi, người ta không biết tại sao, thường sau khi gặp nghi ngờ khủng khiếp, thì lời cầu nguyện lại trào lên trong chúng ta. Thoạt tiên nó như một tia sáng nhỏ dưới lớp than hồng, rồi sau đó con tim được sưởi ấm lại. Lúc bấy giờ người ta lại bắt đầu kêu xin và lời cầu nguyện như thế có thể trở thành cột lửa lớn. Các sư phụ sa mạc mạc đã nói tới những cột lửa để ám chỉ những người có đời sống cầu nguyện sâu xa. Người ta nhìn thấy mười ngón tay của Arsène như mười ngọn đuốc cháy sáng, và ngài nói: “Ngay con người bạn cũng có thể thành lửa!”. Khi sự cầu nguyện đến với ta thì tất cả những sợ hãi, đau khổ và buồn chán sẽ tiêu tan. Thật sự chỉ có cầu nguyện mới có thể chữa trị được mọi sự. Hôm nay tôi viết như vậy, để mọi người tin vào điều đó. Liệu có phải chết đi để anh em mình hiểu điều đó không ? Trong cuộc sống cũng như trong cái chết, tôi thuộc về Chúa Giêsu và tôi xin Người ban cho tất cả mọi người ơn cầu nguyện, trước tiên cho những ai mà tôi không thể giúp đỡ bằng lời nói.
Tôi tin rằng Thiên Chúa sẽ mặc khải cho những ai cầu xin cái thời mà Người sẽ làm cho họ tưởng nhớ đến Người. Về điểm này Người không thể phản lại bạn, nhưng Người sẽ thực hiện thật dịu dàng bằng cách làm cho bạn nghi ngờ rằng không biết Người có thật khát khao hương về bạn không? Nỗi khát khao Thiên Chúa của bạn chỉ là khúc xạ của một trái tim con người giới hạn nhưng lại khao khát Vô Biên. Bạn sẽ hiểu ra điều đó hơn khi bạn đi cho đến cùng cơn khát cầu nguyện của bạn, cơn khát sẽ làm cho điều đó tăng lên cùng với sự khao khát khuôn mặt của Người. Lúc nào đó người ta chìm đắm trong cầu nguyện đến nỗi lao vào cung lòng Chúa Ba Ngôi: chính trong ý nghĩa đó mà cần phải giải thích lời của thánh Philippe Neri khi ngài nói:Thiên Chúa mặc khải cho những tâm hồn cầu nguyện, lúc mà họ quay về với Người.
“…cùng một Thần Khí, kẻ thì được ban cho đức tin...” (1Cr.12,9)
Trong vòng gần một tháng trời tôi không viết lách gì cả, nhưng vì có những ngày lễ cuối năm với những gói quà kèm theo những tấm thiệp chúc mừng và những lá thơ phải trả lời, nên tôi lại tiếp tục viết. Và rồi tôi còn phải chữa bệnh với phương pháp trị liệu bằng hóa chất - buổi chữa vừa mới chấm dứt – tôi mệt lử đi sau hai buổi trị liệu. Còn chuyện này nữa, tôi theo một thứ văn chương khá đặc biệt, bởi lẽ tôi đang tiếp tục viết về “cầu nguyện đêm ngày”. Trong đó tôi thêm vào vài nét tiểu sử tự thuật, những đoạn đời khá nhiệm mầu của tôi cho tới lúc này. Tôi thực không nghĩ gì về giây phút Chúa sẽ gọi tôi ra đi, hơn nữa chính Chúa Giêsu từng báo trước cho chúng ta rằng điều đó chỉ một mình Cha biết, mặc dù tôi cảm thấy giờ ra đi của tôi đã gần.
Điều khiến tôi viết, ấy chính là tôi không còn cách nào hơn để có thể đi vào trong sự hiệp thông với người khác, bởi chỗ sưng đã ép mạnh lên thanh quản khiến tôi mất tiếng, nhất là vào cuối ngày.
Một biến cố khác khiến tôi tiếp tục viết: tôi vừa nhận được một bài luận văn do Chritine Richir ở đại học Louvain soạn thảo nhằm chuẩn bị lấy bằng cử nhân khoa tu đức; cô ta dựa vào sự tiến triển trong “thần học thiêng liêng” của tôi và vào toàn bộ tác phẩm viết tay của tôi. tựa đề bài luận: Jean Lafrance. Một tiến trình: Từ Elisabeth Chúa Ba Ngôi đến thánh Silouane.
Đọc tựa đề đó tôi có cảm tưởng là tôi biết rõ mình hơn một chút. Em gái tôi cũng ghi nhận điều đó về tôi: “ Em có cảm tưởng là em không biết anh trước khi đọc tựa đề đó”.
Tất cả những chuyện được viết đều có thật. Phải ghi nhận rằng với công việc khoa học này, cô ta đã nghiên cứu về các từ vựng của tôi, các chỗ trích dẫn, các nguồn văn, các ảnh hưởng của tôi kèm với những tấm bảng và những biểu đồ rất cảm kích.
Cô ta đã dành một tiếng rưỡi đồng hồ để phỏng vấn tôi về bài luận văn cũng như những quyển sách mà tôi tặng cô, nói về cuộc hành trình của tôi từ linh đạo Carmel cho đến linh đạo của thánh Inagnce. Tôi thấy rằng cô ta đã sửa đổi nhiều trong khi ghi chép, như thể có sự quay ngược 180 độ. Thật tiếc, bởi vì điều mà cô đã nói về những thực tập thiêng liêng của thánh Ignace, – thật ra cô ta không có lỗi gì cả – không phản ánh được điều mà tôi muốn diễn tả trong cuốn “ Hãy cầu nguyện với Cha trong kín ẩn”. Với tôi đây là tác phẩm diễn tả đời sống thiêng liêng của tôi cách tuyệt hảo nhất. Hơn nữa đó là cuốn sách thu hút được nhiều người hơn cả. Còn một điều nữa mà cô ta không nhận thấy, ngay cả khi nhấn mạnh tôi là một tác giả hiến thân cho cầu nguyện, đó là lời kêu xin trong các bài viết của tôi. Sau cuốn “Cầu nguyện của con tim”, tất cả tư tưởng của tôi xuay quanh lời kêu xin, nhất là sau lần gặp gỡ cha Molinié. Có một cuốn sách khác cũng được đánh giá cao và được nhiều độc giả ưa thích đó là cuốn “Sức mạnh của lời cầu nguyện” và quả thật tôi thường quay lại với tác phẩm này nhiều nhất. Tuy nhiên, phải công nhận, sau khi đọc xong bài luận văn, tôi buộc phải nói rằng dù sao Chritne Richir đã nhận thấy cầu nguyện là ý tưởng chủ đạo trong tác phẩm của tôi. Để kết thúc cô ta viết: “chúng tôi tưởng có thể kết luận rằng: trong tác phẩm của ngài luôn xuất hiện nỗi bận tâm trả lời cho các câu hỏi: “ cầu nguyện thế nào ? ” và nhất là “thế nào là càu nguyện không ngơi”. Chính trong luồng chủ đề đó mà ngài đã khám phá ra các tác giả thiêng liêng đã làm nên tiến trình của ngài”.
Và điều đó đưa tôi trở lại với tính khách quan của những trang sách này. Hơn nữa không bao giờ có thể tách tư tưởng thiêng liêng của một tác giả ra khỏi đời sống, ra khỏi cái cụ thể hiện sinh của người ấy. Trong ý nghĩa này tôi không lấy làm khó khăn gì để chắp nối điều tôi nói vào câu sau đây: “Cũøng một Thần Khí, kẻ thì được ban cho niềm tin”.
Niềm say mê thật sự trong đời tôi chính là cầu nguyện, nhưng tôi phải nhận rằng sự cầu nguyện đó ngày càng trở nên lời cầu thay nguyện giúp và kêu van. Tôi tin rằng Chúa Thánh Thần đã muốn ban cho tôi ân huệ đức tin, một đức tin có thể di chuyển núi đồi. Nhưng phải thêm ngay, nếu đức tin là một ân ban, thì nó đòi sự cộng tác, và tôi xin thú nhận là đã không cộng tác như ý Chúa Thánh Thần – chắc chắn vì tôi đã không dành đủ thì giờ cho nguyện ngắm, nên không sống đến cùng đức tin của tôi nên đã không thể lay chuyển được núi đồi.
Hiện nay, tôi đang đương đầu với một thử thách khác: lời cầu nguyện mà bên ngoài không thấy được nhậm lời. Quá rõ ràng là những lời Tin mừng liên quan đến cầu nguyện đã làm tôi phải hết sức lưu ý: dụ ngôn về người bạn và bà góa quấy rầy. Một lời tóm kết cuộc đời cầu nguyện của tôi: “ Tất cả những gì các ngươi nhân danh Ta mà xin cùng Cha, thì các ngươi sẽ được nhậm lời”. Thú thật, kêu xin với tất cả các thánh trên trời cứu chữa rồi, thế mà tôi thấy trời vẫn đóng kín. Nhưng tự đáy lòng, tôi tin chắc là tôi đã được nhậm lời, ngay cả khi tôi còn bệnh. Nếu không, sau hai ba năm bệnh ung thư, làm sao tôi còn sống! Nhưng thử thách vẫn còn: không làm cách nào cho khối u xẹp xuống. Lo quá.
Đôi khi tôi nghiệm thấy như sự “thinh lặng bên ngoài” của Thiên Chúa là một thử thách, bởi lẽ nó tấn công ngay vào ơn gọi cầu nguyện. Tôi có thể nói tôi sống chỉ để cầu nguyện, không những cho tôi mà còn cho mọi người và nhất là cho thế giới hòa bình. Tôi cầu nguyện cho mọi người. Khi thấy dường như không có gì xảy ra và Thiên Chúa cũng có vẻ câm lặng, thì trong tôi xuất hiện một phản ứng vô ý thức: mình bị lừa chăng? Ôi tất cả chỉ là láo toét ! Tôi thật quá đáng khi nói điều đó, nhưng dầu sao phản ứng này, không do ước muốn của tôi.
Chính vì thế mà câu trả lời của tôi không mang một cảm xúc nào. Thay vì thôi cầu nguyện, tôi lại cầu nguyện với tất cả sức lực và mãnh liệt hơn, nhất là những lúc tôi được ban cho ơn cầu nguyện, lúc đó lời cầu nguyện của tôi bỗng chốc trở nên nhẹ nhàng. Và như các tông đồ, có nguy cơ tôi sẽ chạy trốn, tìm chỗ nghỉ ngơi.
Thông thường khi ơn cầu nguyện đến lúc tôi thức dậy ban đêm, thì tôi bắt đầu cầu nguyện bằng lần chuỗi.
Còn một thử thách nữa, đại loại là: “ Cầu nguyện làm gì khi không được nhậm lời?” và thử thách nặng nề thêm khi ai đó nói với tôi – điều làm cho tôi luôn buồn cười, vì tôi biết rõ đó không phải là sự thật: “ Anh là một người cầu nguyện, thế tại sao anh không được nhậm lời ? ”. Tôi không muốn tranh cãi, tôi cố gắng cầu nguyện sống sắng hơn.
Tôi rất hiểu rằng Chúa Giêsu đã bảo phải cầu nguyện luôn, không bao giờ mệt mỏi, không bao giờ nản chí. Thời gian là một thử thách lớn trong việc cầu nguyện. Nhưng dấu hiệu cho thấy sự hiện diện của Chúa Thánh Thần, là Người thôi thúc các bạn kiên trì cầu nguyện, bất chấp tất cả. Có những ngày, tôi tự nhủ như cha sở họ Ars: “Ngay cả khi không thấy gì, tôi vẫn tiếp tục cầu nguyện, kêu van”. Hơn nữa, cả khi bị người đời phi bác về sự cầu nguyện, và khi có vẻ như ngay cả trời cũng quên tôi, tôi vẫn cứ tiếp tục cầu nguyện. Như người đàn bà góa quấy rầy, chúng ta cần có vị thẩm phán hà khắc và nhất là chúng ta không được đầu hàng trong cuộc chiến cầu nguyện này, một cuộc chiến không phải của chúng ta nhưng là của Chúa Kitô.
Có những lời trong Tin mừng tái tạo lại nơi chúng ta ân sủng và sự tin tưởng trong cầu nguyện. Có những lời bên ngoài có vẻ tầm thường do các tác giả Tin mừng viết để chuyển ý, lại gợi lên những thái độ của Chúa Giêsu. Những lời đó tác động trên tôi làm nẩy sinh những hiệu quả mà tôi không thể diễn tả được; chúng đưa tôi vào trong những vực thẳm của cầu nguyện mà tôi chẳng hiểu gì, nhưng lại làm tôi chú ý đến việc cầu nguyện. Tôi xin kể ra đây hai trường hợp nằm trong phụng vụ tuần này:
Trường hợp thứ nhất, đó là dịp cơn bão lặng yên: Sau khi từ biệt các ông, Người lên núi cầu nguyện. Sau đó, Người đi trên biển và nói với các Tông đồ: “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ !”(Mc 6, 46- 50).
Trường hợp thứ hai: Tôi gặp được trong Tin mừng ngày hôm nay. Chúa Giêsu vừa chữa lành người phong cùi (và Chúa biết những phép lạ này chất vấn tôi biết bao). Sau đó thánh Luca nói: tất cả đám đông kéo đến với Chúa Giêsu để nghe Người và được chữa bệnh. Và cách tự nhiên thánh sử thêm: “ Nhưng Người lui vào nơi hoang vắng mà cầu nguyện” (Lc 5, 16 ).
Tôi không thể diễn tả điều mà những lời này đang tác động và khơi gợi trong tôi. Như người đàn bà loạn huyết của Tin mừng, tôi muốn tiến lại gần Chúa Gêsu và đụng vào áo Người: “ Thế là tôi được tiếp xúc với Chúa Giêsu, con người duy nhất trên trái đất này biết cầu nguyện đích thực”. Tôi không muốn biết lời cầu nguyện của Người, nhưng khi ấy một tình yêu lớn lao đối với Chúa Gêsu đang trào lên trong con tim tôi, đồng thời tôi còn biết rõ rằng tình yêu này mang tính hỗ tương, và tôi biết khi hiệp thông với Người trong mọi sự, thì Người sẽ gìn giữ tôi trong lời cầu nguyện của Ngài. Đối diện với “ Chúa Giêsu đang cầu nguyện” như thế, tất cả những lời dị nghị về cầu nguyện sẽ tiêu tan, giống như tuyết dưới ánh mặt trời bị quét sạch đi hết. Tôi cũng lường được rằng Chúa Thánh Thần đã ban cho tôi ơn cao trọng trên hết mọi ơn khi kêu gọi tôi dâng hiến cuộc đời cho việc cầu nguyện. Nếu làm mọi sự vì yêu mến, thì tôi tin rằng chắc điều đó không thể mất được trong đời sống của một con người, ngay cả khi người đó chết theo thể lý. Cầu nguyện thực sự là cái gì đó thuộc đời sống vĩnh cửu … một đời sống vĩnh cửu sẽ được cắm giữa lòng thời gian. Lúc bấy giờ tôi gặp được tất cả các thánh, tất cả những người cầu nguyện trên trời cũng như dưới đất. Tôi thường cầu nguyện với Cha Saint- Seine, người đã có ơn cầu nguyện này và đã chia sẻ ơn đó cho tôi.
“Người luôn nhậm lời, khi chúng ta xin điều gì hợp ý Người ” (1Ga.5,14)
Mỗi ngày tôi được một lời đưa tôi vào trong bình an và củng cố niềm khát khao cầu nguyện của tôi, chẳng hạn hôm nay với lời: hỡi các con yêu dấu, “lý do khiến chúng ta được mạnh dạn trước mặt Thiên Chúa, đó là: Người nhậm lời chúng ta khi chúng ta xin điều gì hợp ý Người. Và nếu chúng ta biết rằng Người nhậm mọi lời của chúng ta kêu xin, thì chúng ta cũng biết rằng chúng ta sẽ được những gì chúng ta đã xin Người” (1 Ga 5, 14 – 15). Ta biết là thánh Gioan đã đón nhận lời giáo huấn này từ môi miệng Chúa Giêsu vào buổi chiều bữa tiệc ly, khi Chúa Gêsu mời gọi các Tông đồ hãy xin mọi sự với Cha nhân danh Người, và Người đoan chắc là họ sẽ được nhậm lời. Chúng ta có tin thực sự vào lời đó không ? Có những chuyện xảy đến nghịch lại với những lời xác quyết ấy đến nỗi chúng ta cảm thấy một sự mệt mỏi nào đó, một sự nhụt chí thực sự và chúng ta nói: “cầu nguyện được ích gì ? ”. Khi ấy chúng ta phải nghĩ ngay đến điều kiện mà thánh Gioan đặt ra để lời cầu nguyện được chấp nhận: phải hợp với ý Thiên Chúa. Làm sao biết được điều mình xin hợp ý Thiên Chúa? Lúc hấp hối (ở vườn Cây Dầu), Chúa Giêsu đã không được nhậm lời khi xin cho khỏi uống chén đắng. Nhưng Người vẫn tiếp tục cầu nguyện và kêu xin suốt đêm. Mỗi lần (ba lần trong thánh Mac- cô) thấy các tông đồ ngủ, Người đều khiển trách họ đã không thể thức được nửa giờ với Người. Chúng ta không cần phải hỏi làm sao biết được điều mình xin hợp ý Thiên Chúa, bởi vì khi ấy con tim nghi ngờ sẽ thâm nhập vào trong trái cây cầu nguyện và trái cây đó chưa đủ to để có sức triển nở. Thế là nó không thể trở thành hạt giống, bén rẽ, lớn lên và làm cho hòn đá cứng nhất cũng phảivỡ tan.
Phải làm gì đây? Phải tiếp tục bởi vì Chúa Kitô nói với chúng ta rằng tất cả những gì chúng ta xin cùng Cha, sẽ được nhậm lời. Thánh Gioan lại thêm: “Chúng ta biết là Người lắng nghe tất cả những lời kêu xin của chúng ta”. Phải xin mọi sự từ nơi Thiên Chúa nhưng cứ để cho Người tự do trao ban. Việc cương quyết, kiên trì không nản chí của chúng ta là dấu hiệu Thiên Chúa muốn nhậm lời chúng ta. Thiên Chúa làm cho chúng ta không khao khát cũng chẳng hy vọng bất cứ cái gì mà Người không muốn ban cho. Cũng cần phải hiểu chữ “ tất cả” này, nghĩa là Thiên Chúa muốn ban cho chúng ta nhiều hơn điều mà chúng ta không dám xin và ngay cả hy vọng. Như thánh Alphonso de Liguori nói với một sự phấn khởi rằng: tốt hơn hãy xin Chúa mười ơn thay vì một, hai hoặc ba.
Tôi tự hỏi không phải vì lý do này mà nhiều kitô hữu và nhiều người trong Giáo Hội ít lưu tâm đến việc cầu nguyện xin ơn đó sao? Hình như họ sợ bị trượt chân, mất hết, khi chạy theo cầu nguyện mà chẳng được gì! Ngay cả ngày nay, khi đã biết rõ có một sự canh tân trong cầu nguyện, Giáo hội cũng chưa khám phá đầy đủ nguồn ơn của việc kêu xin. Thực sự chúng ta rất ít khi được nghe các Giám mục nhắc nhở về việc cầu thay nguyện giúp, mà lẽ ra đó phải là chuyện thường xuyên người kitô hữu được nghe. Chỉ cần đọc các thư thánh Phao lô cũng đủ thấy giá trị lớn lao của việc cầu nguyện cho các nhà lãnh đạo quốc gia, cho các anh em trong cùng đức tin và ngay cả cho những người tội lỗi (thánh Gioan xin chúng ta cầu nguyện cho tội không đưa đến cái chết ). Đó đã là thói quen trong Giáo hội sơ khai. Ngay khi có bách hại, một tai hoạ ập đến, hay có anh em chịu đau khổ xác- hồn, thì người ta cầu nguyện và đi xin khấn: đó là chuyện tự nhiên thôi. Thế mà chúng ta thường quá nghi ngờ do dự với lời cầu nguyện này – có lẽ cần có thái độ như những trẻ nhỏ đơn sơ, cách tự nhiên chạy đến cầu xin với thánh nữ Rita.
Ngày nay trong Giáo Hội, nhiều linh mục nghi ngờ những ai muốn hiến thân duy cho việc cầu nguyện kêu cầu này, nếu như người đó không trình bày với cha sở về việc cầu nguyện ấy. Trong khi đó bên Đông phương, ngay ở Nga, người ta thấy chuyện đó hoàn toàn bình thường và còn được khuyến khích nữa là khác. Chính những người nam, người nữ này nâng đỡ thế giới và ngăn chặn không cho nó rơi xuống vực thẳm.
Hiển nhiên một ơn gọi như thế được cất giấu trong kín ẩn dưới cái nhìn của Cha trên trời. Dưới mắt người đời, dường như đó là một sự điên rồ hay đúng hơn đó là một chuyện làm mất thời gian. Vậy chẳng lẽ ngày nay không còn những người “điên trong Chúa kitô” như thế nữa sao?
Không phải vì vậy mà Chúa kitô tự đặt cho mình câu hỏi sau đây sao : khi trở lại, liệu Ngài còn gặp thấy niềm tin trên trái đất này không? Các bạn cần để ý là Chúa đặt câu hỏi đó vào cuối dụ ngôn về bà goá quấy rầy ( Lc 18, 1-8 ), liên quan đến những người được chọn đêm ngày kêu lên Chúa. Tôi tin rằng chính niềm tin đó mà Chúa Giêsu muốn tìm thấy nơi tâm hồn mỗi người khi Người trở lại. Vì thế mà Người kêu mời chúng ta hãy tỉnh thức và cầu nguyện. Tôi sẽ phải trả giá rất đắt để gặp được một con người mà Chúa kitô có thể nói, như với người đại đội trưởng trong Tin mừng: “Chưa bao giờ Ta gặp thấy một đức tin như thế trong dân Israel !” Nhưng còn có chuyện này là chúng ta được đưa vào trong lời cầu xin sau đây, vì chỉ Chúa kitô mới có thể ban cho chúng ta đức tin mà Người muốn gặp lại nơi tâm hồn mỗi người khi Người trở lại: “ Lạy Chúa, con là kẻ yếu lòng tin, xin cứu giúp và thêm đức tin cho con”.
Tôi tưởng có thể nói là tôi gặp được niềm vui trong cầu nguyện. Nếu không có cầu nguyện thì tôi đã mất bình an và sức mạnh để sống từ lâu rồi. Cầu nguyện đặt tôi bên Chúa kitô, trong Chúa Thánh Thần và dưới ánh mắt Chúa Cha. Cầu nguyện phải thường hằng. Sẽ không thỏa đáng khi ấn định cho việc cầu nguyện những thời gian nhất định, rồi sau đó, tìm giờ rảnh, làm điều mình thích! Phải trở về với việc cầu nguyện ngay khi ta có được một chút rảnh rỗi. Cũng cần phải nói ngay rằng không thể cầu nguyện được khi người ta bất ổn, ham nghe ngóng, thích chạy lăng xăng. Tôi nghiệm thấy, ngay khi yên lặng trở lại, tôi được thôi thúc phải cầu nguyện.
Việc cầu nguyện thường xuyên này luôn được đặt ở hai bình diện. Bình diện nội tâm hay bình diện “ chiều cao”. Khi mà tôi ở ngoài tôi, nhưng lại ở bên cạnh Chúa Cha và Chúa kitô. Đó là tình trạng đơn sơ của sự hiện diện, của chú tâm, của yêu thương và nhất là của kêu van. Nhưng còn có một bình diện khác ngoại tại hơn, cái bình diện mà tôi muốn gọi là sự nâng đỡ mang tính vật chất, được tạo nên do tràng hạt, các thánh vịnh và kinh nguyện Chúa Giêsu. Tuy nhiên hai bình diện này luôn tương quan với nhau. Ví dụ, có thể lần hạt nhưng đồng thời lòng tôi có thể chìm vào trong những lời của Tin mừng: Chúa Giêsu rút vào cô tịch để cầu nguyện. Cũng thế, tôi vẫn cầu nguyện cho thế giới hòa bình, chẳng bị rối loạn gì do điều này hay chuyện khác, bên trong bên ngoài.
Thật sự đó là ơn trên hết các ơn, bởi lẽ lúc này đây, không còn có điều đó nữa, tôi bị tước mất khả năng nói cùng với tất cả những hoạt động bên ngoài. Tôi xin lập lại rằng, tôi nhận ra ơn gọi ẩn tu mà tôi thoáng thấy và khao khát sống ơn gọi đó từ hồi tôi mới mười tám tuổi. Đối với tôi lúc bấy giờ quả là một giấc mơ hoàn toàn không thể thực hiện được. Thiên Chúa luôn chấp nhận một khao khát thực sự mà Người đặt vào trong tâm hồn, ngay cả khi nó gần như chỉ là ước mơ.
“Con luôn ở với cha”
Tôi tưởng rằng đây là lời nói sau cùng mà người ta có thể nói về cầu nguyện, nhất là về lời kêu xin. Đó là lời của người cha nói với đứa con trai cả trong dụ ngôn đứa con hoang đàng: “ Con à, lúc nào con cũng ở với Cha” ( Lc 15,31 ). Đích xác đó là lời của Chúa Giêsu nói với Cha Người trong Gioan: “ Con ở trong Cha và Cha ở trong Con” (Ga 17,21 ). Chúa kitô không bao giờ ở một mình, Người luôn ở với Cha (Ga 16, 32 ). Đó là tiếng sau cùng trong lời cầu nguyện .
Điều đó cho phép tôi nói rằng cầu nguyện luôn luôn được nhậm lời, hay đúng hơn tất cả những lời cầu xin với Thiên Chúa có mục đích tối hậu là nâng tôi cao lên. Vào những thời kỳ mà người ta nói tới nhiều về vấn đề cải cách trong việc viết chính tả, để làm cho người ta hiểu đề nghị của tôi, tôi muốn thay đổi cách viết chính tả chữ “exaucé” và viết nó với chữ “ h” ở giữa: “ exhaussé”, như người ta nói: nâng cao một mái nhà, một tầng lầu hay một ngôi nhà. Trong ý nghĩa ấy tôi luôn được nâng lên bởi lẽ lời cầu nguyện đã làm cho tôi lớn lên, làm cho tôi thấy cao hơn, lớn hơn, làm cho tôi vượt qua tầng cao nhất. Lời cầu nguyện không bao giờ để tôi ở yên một chỗ, nó đẩy tôi lại gần với Chúa kitô và qua đó lên với Chúa Cha.
Các sư phụ cũng diễn tảø chân lý ấy gần giống như vậy. Trong truyền thống đan tu, có đấng được xem như là vị thầy đầy kinh nhiệm về cầu nguyện và đã đào tạo hàng trăm đan sĩ về việc cầu nguyện không ngừng. Ngày nay cuốn sách “Cái thang” của ngài là sách giáo khoa cổ điển trong việc đào tạo căn bản cho người đan sĩ núi Athos cũng như đan sĩ Cophte bên Ai cập. Ở bậc 28, ngài đã đề cập đến vấn đề này. Đối với ngài không có chuyện chứng minh rằng tất cả lời cầu nguyện được Chúa nhậm lời, đó là chuyện đương nhiên bởi vì ngài đón nhận lời ấy từ miệng Vị Thầy trong Tin mừng. Lời đề nghị của ngài mang tính giáo dục hơn; ngài muốn nâng đỡ sự vất vả của người đan sĩ hiến thân cho việc cầu nguyện không ngừng và khích lệ anh ta đừng nản chí thối lui. Vì vậy ngài nói: “ Đừng lo lắng cho kết quả cầu nguyện của anh, nhưng hãy để ý đến chuyện này là lời cầu nguyện ấy đã đưa anh lại gần Chúa và nối kết anh với Người rồi. Điều đó được diễn tả như thế này:
“ Sau một thời gian kiên trì trong cầu nguyện, bạn đừng nói bạn đã không đạt được gì cả, vì bạn đã thu được kết quả rồi. Thật vậy, cao cả biết bao khi gắn chặt với Chúa và kiên trì không ngơi trong sự kết hợp với Người” (Jean Chimaque, L’Echelle Sainte. Spiritualité orientale, Bellefontaine, số 24, 1978, 28.32, trang 295 ).
Xét cho cùng, chẳng mấy quan trọng, khi đạt được điều chúng ta đã xin, căn bản là chúng ta đã quay về với Cha để kêu xin, cầu khẩn hoặc tạ ơn Người… Tắt một lời điều quan trọng đó là mối giây liên kết trong tương quan được thiết lập giữa Thiên Chúa và chúng ta và làm cho chúng ta hiện diện với Người. Chúng ta đón nhận lời cầu chúc tối hậu của Chúa Giêsu trong Tin mừng: ước mong chúng ta lưu lại trong tình yêu của Cha. Cha biết rõ điều chúng ta cần, bởi vì Người biết rõ chiều sâu thẳm của lòng ta. Hơn nữa Thần Khí của Người, Đấng dò thấu chiều sâu thẳm của các tâm hồn tạo nên lời cầu nguyện phù hợp với những ước mong của Cha. Có lẽ đây là điều duy nhất có gía trị mà ta có thể làm: “ Lạy Cha, nhân danh Chúa Giêsu, xin ban cho con Thần Khí của Cha”; phần còn lại không lệ thuộc nơi chúng ta mà là nơi Chúa Thánh Thần. Chắc chắn khao khát đi vào trong tương quan với Cha cũng lệ thuộc chúng ta (cái khao khát được Chúa Thánh Thần gợi lên): chính nơi đó hình thành mối giây liên hệ làm cho chúng ta suy nghĩ, sống và kết hợp với Chúa từng giây từng phút. Trực giác này đã làm cho thánh Tê- rê-xa thành Lesieux nói là ngài không bao giờ ở không ba phút, mà không nghĩ đến Chúa.
Đó là ý kiến của thánh Jean Climaque, người đã nói rằng cầu nguyện “làm cho chúng ta kiên trì không ngơi trong sự kết hợp với Thiên Chúa”. Như thế việc cầu nguyện xin ơn giống như một “mưu kế của tình yêu”. Đối với Thiên Chúa, Đấng muốn chúng ta không ngừng sống bằng cách ở với Người cũng như Người muốn sống bằng cách ở với chúng ta (Emmanuel: Thiên Chúa ở cùng). Chẳng quan trọng bao nhiêu việc chúng ta làm, đều thiết yếu chính là ở với Chúa. Xét cho cùng, sự gần gũi này đồng nhất hoá với sự thinh lặng, chú ý và yêu thương. Và điều đó tự phát sinh mỗi lần chúng ta ước ao tìm gặp sự cầu nguyện .
Tôi tiến tới nhiều, nhưng lại ít khát khao cầu xin – điều này không muốn nói là tôi không khao khát kêu xin – nhưng tôi không còn biết rõø phải cầu xin điều gì nữa. Tôi nghĩ rằng mình cảm nghiệm được điều mà thánh nữ Tê-rê-xa Avila đã cảm nghiệm vài năm trước khi ngài qua đời. Với thánh nữ, dường như ngài đã đánh mất những khao khát yêu mến Chúa và chỉ muốn sống để ăn uống, và ngủ. Tôi có cảm tưởng là mình cảm nghiệm được điều đó! Tôi không còn biết nói gì nữa trong cầu nguyện. Trong mọi trường hợp, có những lời thiêu đốt đôi môi và người ta không dám phát nó ra. Chẳng hạn, tôi sẽ không dám nói tôi yêu mến Thiên Chúa hay Đức Kitô nữa. Tình yêu vượt quá tôi như thế và tôi không còn biết tỏ tường đó là cái gì. Sống trong sự thật là sống trong sự nghèo nàn, tội lỗi và cả sự đau đớn thể xác. Điều tôi có thể nói, đó là: “Lạy Chúa Gêsu, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”, nhưng cũng từ đó tôi tự hỏi tôi đọc câu ấy với nền tảng chân lý nào. Lúc đó tôi thích câm lặng hơn, hoặc nói: “ Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tư û”. Tuy nhiên, không có gì, không có ai, không có nỗi thống khổ nào, như thánh Phaolô đã nói, có thể tách tôi ra khỏi lòng mến của Thiên Chúa được bày tỏ nơi Đức Giêsu Kitô.
Đó là lời cầu nguyện tinh tuyền, không mặc bất cứ một định nghĩa nào, và xét cho cùng nó đồng nghĩa với sự thinh lặng. Tuy nhiên không được lầm lẫn về bản tính của tình trạng này, vì nền tảng của nó là luôn ý thức mình ở với Thiên Chúa, Đấng hiện diện chan hòa trong mọi sinh linh, ngay cả trong thân xác, với niềm vui và sự bình an khôn tả. Điều đó có thể xảy ra trong mọi tình cảnh, trong những cuộc trao đổi, và trong những hoạt động bận rộn nhất. Điều thường gây thắc mắc ở đây, đó là người ta ý thức về tình trạng này ngoài những giờ cầu nguyện hơn là vào chính giây phút người ta cầu nguyện.
Ai sống đời cầu nguyện bên trong này thì giống như một nhà thờ chính tòa chìm dưới đáy đại dương, dù trên bề mặt người ta không thấy gì. Tất cả sự rạng ngời nằm ẩn giấu trong chỗ thâm sâu nhất của con tim. Một thí dụ khác cũng có thể giúp hiểu hơn tình trạng này, đó là hình ảnh một cánh đồng lúa mì bao la (đồng bằng xứ Bauce) phủ đầy tuyết. Bên ngoài là sự rực rỡ của màu trắng, bên trong là hạt giống bé tí đang chết đi để làm xuất hiện một mầm cây sẽ làm phát sinh những mùa gặt tương lai. Trong đời sống thần hiệp, mầu nhiệm cốt ở chỗ giác quan không cảm thấy gì cả, nhưng những cơ năng tình cảm sâu xa thì lại thấy, và chính trên những cơ năng ấy mà vọt lên tình trạng: luôn ý thức mình ở với Chúa.
Đức tin tinh tuyền và trần trụi, như thánh Gioan thánh Giá nói, đó chính là yếu tố chắc chắn nhất để có thể đụng chạm được Thiên Chúa. Đời sống đức tin vượt sang bên kia cái khả giác, tạo nên một trong những thử thách cam go nhất của đời sống kitô hữu, đặc biệt là đời sống cầu nguyện. Chúng ta thường phải gồng mình để kéo dài việc cầu nguyện, điều đó không có nghĩa là chúng ta không yêu mến Chúa kitô, nhưng chúng ta mang thân phận một con người không thể bỏ hay vượt thắng được cảm xúc. Trái lại, khi chúng ta bất chấp có cảm xúc hay không, điều đó minh chứng rằng quả thật chúng ta đang yêu mến. Chúa Giêsu nói: “ Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy” ( Ga 14,,21 ).
Khi ấy chúng ta đạt được mục đích thật của việc cầu nguyện : đó là tình yêu. Cầu nguyện không có mục đích nơi chính bản thân nó. Cái định nghĩa thế nào là một môn đệ Chúa kitô, ấy chính là tình yêu và sự khao khát thi hành ý muốn của Chúa Cha; nếu chỉ có lời cầu nguyện liên tục không thôi, cũng không đủ. Khi không có tình yêu, chúng ta phải kiên trì van xin. Chính vì thế Chúa kitô mời gọi chúng ta cầu nguyện mà không bao giờ được nản chí. Tất cả những chuyện đó là một mầu nhiệm, và ta sẽ ý thức về điều đó hơn khi ta tiến bộ trong đời sống cầu nguyện; chúng ta nên ý thức, chúng ta chưa trở thành tình yêu, và thay vì leo lên cái thang nối kết chúng ta với Thiên Chúa, chúng lại hạ những nấc thang nghèo hèn và khốn khổ của mình xuống. Điều đó chứng minh cho lời sau đây của Chúa kitô: “Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên”. Tất cả những điều đó không dễ dàng làm theo. Thật khốn khổ!
“Một Thiên Chúa ẩn mình”
Người thực là một Thiên Chúa ẩn mình, Thiên Chúa của Israel, Đấng cứu độ (Is 45,15 ). Đó chính là kinh nghiệm sâu xa nhất về Thiên Chúa mà ta có thể có được trên trái đất này, nhất là khi ta dâng hiến cả cuộc đời cho việc tìm kiếm Thánh Nhan Người. Rất đau đớn vì bị sưng khớp xương, Đức cha Ancel về cuối đời đã thú nhận (với cha Saint- Gaudens) rằng ngài không còn biết cầu nguyện nữa, nhưng sau đó ngài thêm: “ Có lẽ chính sự bất lực đó lại là sự cầu nguyện đích thực”. Nhiều lần chúng ta buộc phải thú: “ Tôi không hiểu gì nữa, vì chẳng có gì cả”, và nói như thánh Grégoire de Nazianze: “ Xin thương xót con, ôi lạy Ngài, Đấng ở bên kia mọi sự. Đó không phải là những gì người ta có thể hát ca ngợi Ngài sao?”. Anne Philippe đã viết cho chồng bà là Gérard như sau: “ Mỗi chúng ta có thể kết thúc một câu nói được khởi đầu bằng câu nói khác. Cả anh lẫn em, chúng ta là một mầu nhiệm (Le temps d’un soupir, Julliard, tr 62).
Chúng ta càng tiến lên trong sự hiểu biết một con người thì chúng ta càng khám phá ra đó là một mầu nhiệm. Vậy còn có thể nói thế nào về Thiên Chúa?
Tất cả những gì tôi nghĩ và nói về Người chỉ như là vụn bánh và tôi, miệng lưỡi đầy bụi bặm, buộc phải nhận ra như ông Gióp rằng: “ Con đã truyền tụng về Ngài, nhưng thật ra con chẳng biết gì về Ngài”. Trên đường trở về nhà, cao hứng, cha Molinié đã trả lời cho một người hỏi ngài về đời sống thiêng liêng rằng: “sau chín giờ tối, tôi không còn biết gì về Thiên Chúa”. Xét cho cùng chúng ta không biết gì về Thiên Chúa và tất cả những gì chúng ta xây dựng về Người sẽ tan vỡ như một ảo mộng. Trong mộng, người ta có thể viết hết trang này đến trang nọ, nhưng người ta vẫn còn ở ngưỡng cửa của mầu nhiệm.
Nhưng sẽ có lúc mà mầu nhiệm đó trĩu nặng đến nỗi khó có thể mang nổi, ngay cả không thể chấp nhận được, đó chính là lúc nó đụng chạm đến vấn đề hiện sinh liên quan đến sự sống hay cái chết của chúng ta. Các triết gia, ngay cả các nhà thần học đã tranh luận rất nhiều về việc không thể hiểu biết Thiên Chúa, điều đó vẫn còn xảy ra, nhưng đến khi gặp phải vấn đề sinh tử, họ cũng phải chọn giữa sự nổi loạn hoặc phó thác, giữa thất vọng hay thờ lạy. Phải nguyền rủa hay chúc tụng, phạm thượng hay ca ngợi.
“Vâng, chúng ta phải nói toạc ra, hét toáng lên rằng: làm sao người ta có thể cầu nguyện được giữa cơn khốn quẫn ấy? Làm thế nào mà con người có thể hướng nhìn lên Thiên Chúa khi mà đường lối của Người với chúng ta dường như tối tăm hơn, Thánh Nhan Người bị che khuất như nhật thực, và ân sủng Người cứ mãi nhạt nhòa đi?
“ Chớ gì đừng ai nói với chúng ta rằng Thiên Chúa có cũng như không chẳng làm được gì cả. Ý tưởng đó chống lại tất cả những gì mà Do thái giáo dùng làm biểu tượng. Thiên Chúa chia sẻ số phận con người, cả trong điều lành lẫn cái ác. Kẻ nào chúc tụng Ngài vì Jêrusalem nhưng lại không hỏi Người về Treblinka thì rõ ràng kẻ đó chỉ là giả hình. Thiên Chúa ở khởi đầu mọi hoạt động của chúng ta và cũng là chung cuộc của những hoạt động ấy. Người vừa là câu hỏi vừa là đáp án: Cái bẫy là ở chỗ này, cũng như người ta không hiểu được Auschwitz nếu Thiên Chúa có đó, thì người ta cũng không thể hiểu nổi Auschwitz nếu không có Thiên Chúa. Đâu là vấn đề: Chúng ta phải phục vụ Người hay từ chối Người? Cầu nguyện như thể không có chuyện gì, nhưng đó không phải là nhát đảm sao ? Nhát đảm, đó có phải là điều Thiên Chúa muốn nơi con người không ?
“ Chúng ta đang ở trung tâm của vấn đề làm bận tâm chúng ta … trong mức độ chúng ta gắn bó vời Người” (Elie Wiesel, lời của một người ngoại quốc).
Dầu sao tôi tin rằng vẫn còn có một thái độ khác: trường hợp ông Gióp đương đầu với những nhà thần học thử chứng minh rằng ông có lỗi. Nói cách khác, tốt hơn nên tranh cãi với Thiên Chúa trong khi vẫn tin tưởng vào Ngài hơn là câm miệng cam chịu, ôm lấy mối oán hận. Thực vậy Gióp đã nói với Thiên Chúa: “Con gì biết đâu, con chỉ phục vụ Ngài, thế mà sao hỏa ngục lại chụp xuống đầu con ?”. Khi ấy ông đã thốt lên như Chúa Giêsu trên thập giá: “Lạy Chúa con, sao Ngài lại bỏ con?”. Và Thiên Chúa lúc bấy giờ đáp lại lời ông Gióp bằng cách cho ông một bài học về sự kỳ diệu của việc sáng tạo: “ Ngươi có thể giải thích cho Ta ai đã tạo nên bầu trời và các tinh tú, ai điều khiển các mgôi sao và cho sương sa, mưa rơi và tuyết đổ ?” Bấy giờ Gióp buộc phải ngậm miệng mà tuyên bố rằng tất cả những điều đó cao cả vượt quá sức ông ! Tắt một lời ông chỉ còn biết thờ lạy mà thôi
Trong tác phẩm: “Sự khôn ngoan của một người nghèo” Clara giải thích cho Phanxicô là có những tình thế vượt quá chúng ta, bởi vì chúng lớn quá đến nỗi chúng ta chỉ còn biết thờ lạy nữa mà thôi: “ Tôi giả sử có một nữ tu nào đó trong cộng đoàn này đến cáo mình vì đã đánh bể một vật gì do vụng về hay bất cẩn: chắc chắn tôi sẽ quan sát và ra cho chị ấy một hình phạt theo thông lệ. Nhưng nếu nữ tu ấy đến nói với tôi là chị đã làm cháy đan viện và tất cả đã cháy rụi hay gần như vậy, thì tôi tin là lúc đó tôi chẳng còn gì để nói với chị ấy cả. Tôi đang đứng trước một biến cố vượt quá sức tôi. Việc tiêu tan một đan viện quả là một chuyện quá to tát đến nỗi làm cho tôi vô cùng hỗn loạn. Điều chính Thiên Chúa đã xây dựng thì không thuộc về ý muốn hay tính thất thường của một thụ tạo. Ý định của Thiên Chúa muôn đời bền vững luôn…”.
“ Ôi, nếu tôi chỉ có đức tin bằng hạt cải !” Phanxicô nói trong tiếng thở dài. Đó là lúc mà ngài cảm thấy Dòng của ngài suy đồi và mất đi nhiệt tâm thủa ban đầu. Và Clara còn thêm khi nói về đức tin: “Các bạn sẽ nói với ngọn núi này: ‘Hãy bứng ra khỏi đó’ và ngọn núi sẽ làm theo”. Ở chương tiếp theo, Eloi Leclerc đặt vào miệng Phanxicô lời sau đây: “Ôi nếu chúng ta biết thờ lạy”, và xa hơn một chút chúng ta có được những trang tuyệt vời viết về sự tinh tuyền của con tim và về sự thờ lạy. Tôi tin rằng thờ lạy là viên thuốc duy nhất khi các biến cố quá to lớn xảy ra, đến nỗi chúng ta không còn biết phải làm gì nữa. Tất cả những điều vượt quá sức chúng ta thì không lệ thuộc chúng ta. Xét cho cùng, lời kêu cầu phải nhường bước cho sự thinh lặng thờ lạy. Có những ngày, khi xin Chúa Thánh Thần ban cho đức tin mà Chúa Giêsu chờ đợi nơi chúng ta, một đức tin có thể chuyển núi dời non, chúng ta tha thiết kêu xin với tất cả sức lực đến nỗi phải bắt đầu bằng chúc tụng, ngợi khen và nhất là thờ lạy.
Phanxicô lại nói: “ Này anh Lêon, hãy tin tôi, đừng bận tâm quá đến sự tin tuyền của tâm hồn anh. Hãy quay nhìn về Thiên Chúa. Hãy chiêm ngắm Người. Anh hãy vui mừng vì chính Người là sự thánh thiện hoàn toàn. Hãy tạ ơn Người vì chính mình Người. Này người anh em bé nhỏ, có được điều đó, là có được con tim tinh tuyền.
“ Và khi anh quay về với Thiên Chúa như thế, thì đừng bao giờ nghĩ về mình cả. Đừng tự hỏi anh đang ở đâu với Thiên Chúa. Buồn vì không hoàn thiện và khám phá ra mình tội lỗi, thì anh còn là con người cảm tính hết sức thô sơ. Cần phải hướng cái nhìn lên cao hơn, luôn luôn cao hơn. Thiên Chúa có đó, với sự vô biên và ánh rạng ngời không phai nhạt. Con tim tinh tuyền là con tim không ngừng thờ lạy Đức Chúa hằng sống và chân thật. Nó có một tương quan sâu sa với chính đời sống của Thiên Chúa và giữa tất cả những khốn cùng của mình, nó có thể rung động trước sự thanh khiết và niềm vui vĩnh cửu của Thiên Chúa. Một con tim như thế vừa bị tước lột vừa được lấp đầy; Thiên Chúa là Thiên Chúa, với nó thế là đủ rồi. Chính trong đó nó gặp được sự bình an và niềm vui trọn vẹn. Và khi ấy, chính Thiên Chúa là tất cả sự thánh thiêng của nó”.
Lêon lại nói: “ Tuy nhiên Thiên Chúa đòi hỏi sự cố gắng và lòng trung thành của chúng ta”.
Phanxico trả lời: “ Phải, chắc chắn như vậy. Nhưng sự thánh thiện không phải là chuyện làm mình đầy đủ, cũng không phải là một sự tròn đầy mà người ta có thể tự mang lại cho mình. Trước tiên đó là một sự trống rỗng mà người ta phải khám phá ra, đồng thời chấp nhận nó và để cho Thiên Chúa đến lấp đầy tuỳ theo mức độ người ta mở lòng ra với sự tròn đầy của Người.
“ Anh xem, cái hư vô của chúng ta, nếu nó được chấp nhận, nó sẽ biến thành không gian trống rỗng, để ở đó Thiên Chúa còn có thể sáng tạo. Đức Chúa không để ai cướp mất vinh quang của Người. Thiên Chúa, Đấng duy nhất, một mình Người là thánh. Nhưng Người bồng ẵm kẻ nghèo trên tay, kéo nó ra khỏi bùn nhơ và đặt nó ngồi giữa những vua chúa để nó thấy vinh quang của Người. Khi ấy Thiên Chúa trở thành bầu trời xanh cho tâm hồn nó.
“ Này anh Lêon, chiêm ngắm vinh quang Thiên Chúa; khám phá ra Thiên Chúa là Thiên Chúa, Thiên Chúa vĩnh cửu, bên kia cái chúng ta là hay có thể là; tràn trề vui mừng vì Thiên Chúa là Thiên Chúa; ngây ngất trước sự trẻ trung vĩnh cửu của Người và tạ ơn Người vì chính Người, vì lòng thương xót vĩnh viễn của Người, tất cả là một đòi hỏi sâu sa nhất của tình yêu mà Thần Khí Đức Chúa không ngừng đổ vào lòng chúng ta. Có con tim tinh tuyền là sống như thế đó”.
“ Nhưng sự tinh tuyền đó không thể có được, dựa vào sức mạnh của nắm tay hay gồng mình lên”.
Lêon hỏi: “ Thế làm thế nào?”.
“ Đơn giản là không cần phải giữ gì cho mình. Hãy quét sạch tất cả, ngay cả cái cảm giác nhức nhối về sự khốn quẫn của chúng ta. Hãy trở nên trống rỗng. Hãy chấp nhận trở nên nghèo nàn. Từ bỏ tất cả những gì đang đè nặng, ngay cả tội lỗi của chúng ta. Chỉ nhìn ngắm Thiên Chúa mà thôi; và hãy để cho vinh quang đó chiếu toả trên con người của mình. Thiên Chúa có đó, thế là đủ. Khi ấy con tim trở nên nhẹ nhàng. Nó không còn cảm thấy chính mình nữa, như con chim họa mi say sưa với không gian và bầu trời. Con tim trút bỏ mọi lo âu, mọi sợ sệt. Khao khát nên hoàn thiện của nó đã thay đổi trong ý muốn đơn sơ và tinh tuyền đối với Thiên Chúa” (P. Eloi Leclerc, Sagesse d’un pauvre, Eùditions Franciscaines, pp . 164 – 167 ).
Tôi rất hiếm đọc được một bài hay đến thế và cũng là một tiếp cận thật sự với mầu nhiệm cầu nguyện. Khi Chúa Giêsu bảo các muôn đệ rút vào trong ẩn kín để cầu nguyện với Cha, thì Người cũng biết rõ chính Cha, Người cũng ẩn mình để chúng ta tìm kiếm Người cách nhưng không và vì chính mình Người. Một con người càng muốn tìm kiếm khuôn mặt của Cha thì nó càng phải ẩn mình khỏi cái nhìn của người khác; cũng thế, khi Cha thấy người nào đó tìm kiềm Người với tất cả sức lực thì Người càng ẩn mình kín hơn và trở nên vô hình. Chính khi ấy xảy ra một cuộc gặp gỡ khôn tả và mầu nhiệm nhất, ở đó Thiên Chúa thông ban chính những bí mật sâu xa nhất của Người.
Nguyện ngắm chân thật luôn xảy ra vào ban đêm
“Ôi bóng đêm hướng dẫn tôi
“Ôi bóng đêm đáng yêu hơn vầng đông,
“Ôi bóng đêm nối kết anh chàng được yêu với cô gái được yêu,
“Nàng được yêu trong tình yêu mới của chàng.”
(Saint Jean de la Croix, En une nuit obscure, trg 5).
Với những lời này
bài viết cuối cùng của Jean Lafrance đã chấm dứt.
Sáu tuần sau đó Ngài đã an nghỉ trong Chúa.
PHỤ CHƯƠNG
I
ÔI ! ƯỚC CHI NGÀI XÉ TRỜI MÀ XUỐNG.
“Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi xin nhắc lại: vui lên anh em! Sao cho mọi người thấy anh em sống hiền hoà rộng rãi, Chúa đã gần đến”(Pl 4, 4-5). Chúng ta vừa kêu xin Chúa trong phụng vụ, và tôi tin rằng trong đời sống Kitô hữu và đạo đức của chúng ta, việc chờ đợi Chúa Giêsu là một chiều kích căn bản. Nếu không có sự chờ đợi sống động và linh hoạt đó, thì làm sao có thể sống các mối phúc: nghèo khó, con tim tinh tuyền, khiêm tốn và lòng thương xót? Cần phải chờ đợi Chúa Giêsu như Đấng phải đến lấp đầy chúng ta, làm cho chúng ta tràn đầy niềm vui và bình an. Quan trọng hơn là phải đặc biệt chú ý đến sự hiện diện của Chúa Giêsu ở trung tâm lịch sử và trong con tim mỗi người.
Về sự hiện diện của Chúa Kitô bên trong chúng ta, thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Galata, chương 2 câu 20 đã diễn tả như sau:“ Không phải là tôi sống, chính Chúa Kitô sống trong tôi”.
Trong đời sống thiêng liêng, chúng ta phải duy trì hai chuyển động: Một đàng, Chúa đồng hoá với mỗi người trong chúng ta, và cách đặc biệt, như các bạn đã biết, Người đồng hoá với người nghèo, người bé mọn, người bị loại trừ; trong Tin Mừng Matthêu chương 25, Chúa nói: “Điều các ngươi đã làm cho một trong những người bé mọn nhất đây, là các ngươi đã làm cho chính ta”. Nhưng đàng khác, Người luôn ở bên ngoài chúng ta và chúng ta không ngừng chờ đón Người. Đôi khi điều đó xẩy đến với tôi khi tôi giảng cho các cô các cậu. Khi tôi hỏi họ: “ anh chị có nghĩ rằng ngày hôm nay anh chị có thể gặp được Chúa không?”, thì phần lớn họ trả lời vơí : “ Có, có chứ, đúng người ta có thể gặp Ngài, Ngài ở trong những người khác”. Không ai nói ngược lại cả, đó là chuyện hiển nhiên trước tiên. Nhưng Đức Kitô không đồng nhất hoá với người khác, Người có một khuôn mặt riêng, một khuôn mặt nói lên đặc tính của Người, và nếu đặc tính đó không cao quí hơn, thì người ta không thể tìm gặp Người nơi kẻ khác. Có một sự so sánh phải lưu ý, đó là so sánh về một người mẹ phải xa nhà. Bà có hai đứa con, một đứa mười hai tuổi, một đứa sáu tuổi. Bà mẹ nói với đứa anh : “ Mẹ phải đi bệnh viện trong vài tuần, tất cả những gì con sẽ làm cho em con, tức là con làm cho chính mẹ”. Hai anh em sẽ không quên người mẹ của mình, dù chỉ một giây, chúng chờ đợi bà. Cũng thế, một Kitô hữu không thể quên được Đức Giêsu Kitô. Nếu các bạn có sống như vậy là vì các bạn cũng như tôi, một ngày nào đó các bạn đã bị thu hút bởi khuôn mặt Chúa Giêsu Kitô, bị thiêu đốt bởi Người. Có mộtù bài hát : “ Hạnh phúc cho ai được khuôn mặt Ngài làm say mê”. Từ lúc đó chúng ta không thể quên Người được, chúng ta chờ đợi và chúng ta nói như thánh Têrêxa Avila trên giường hấp hối: “ Sau cùng chúng tôi đi gặp nhau”. Đó cũng là xác tín của thánh Phaolô. Chúa đến gần, Người trở lại. Lát nữa chúng ta thấy tại sao chúng ta kêu van, xin Người đến.
Câu sau đây rất tuyệt vời: “Anh em đừng lo lắng gì hết”, nghĩa là đừng sôi sục lên bởi những lo âu. Thánh Phao lô viết câu quan trọng định nghĩa thế nào là một đời sống cầu nguyện của người Kitô hữu trên trái đất này: “ Anh em đừng lo lắng gì cả”. Tại sao ? Bởi vì Cha thấy tất cả, và biết ta cần gì. Điều trước tiên đó là đừng lo lắng cho ngày mai. Tự bản năng chúng ta cảm thấy sợ. Thánh Phaolô bảo trong mọi hoàn cảnh đừng lo sợ. Trong cầu nguyện các bạn nghĩ đến tất cả những hoàn cảnh của cuộc sống, gợi lên trong các bạn nỗi sợ hãi, làm cho các bạn nghi ngờ về ngày mai hoặc tất cả những phiền muộn mà các bạn có thể thấy trước hoặc không lường được. Thánh Phaolô bảo chúng ta hãy cầu nguyện bằng một lời cầu nguyện được đâm rễ trong suốt cuộc sống. “Trong mọi hoàn cảnh, anh em hãy cầu nguyện, tạ ơn kêu và van để Thiên Chúa biết được điều anh em xin” ( x. Pl 4.6).Ởû đây có hai hướng của việc cầu nguyện Kitô giáo. Tất cả lời cầu nguyện Kitô giáo trước tiên là một lời cầu nguyện ngợi khen, một hành vi tạ ơn. Chúng ta tạ ơn Chúa dù cuộc sống mà Người đặt chúng ta vào có là gì đi nữa. Khi ta hiểu ra sức mạnh của lời ngợi khen và tạ ơn, thì ta sẽ bắt đầu nhìn cuộc sống cách bình tĩnh hơn, với sự bình an hơn. “ Chớ chi sự bình an của anh em được mọi người biết đến”. Có lẽ thay cho tất cả, lời ca ngợi và tạ ơn là một thái độ phải trở đi trở lại thường xuyên nhất trong lời cầu nguyện hằng ngày của chúng ta, đặc biệt vào chiều tối khi chúng ta hồi tâm. Cần phải tạ ơn vì tất cả những gì Thiên Chúa thực hiện trong chúng ta, vì tất cả những người mà chúng ta gặp gỡ và vì tất cả các biến cố xảy đến.
Về điểm này, hãy cầu nguyện. Để nhấn mạnh thánh Phaolo nói: Hãy nài xin. Vì thế tôi rất muốn dựa vào sự nài xin. Thánh Phaolô còn thêm : hãy để cho Thiên Chúa biết những lời kêu xin của mình. Trong Tin Mừng mỗi lần có vấn đề cầu nguyện thì có sự xin ơn. Người ta kêu xin bởi vì người ta có nhu cầu nào đó. Hãy nghĩ đến người bạn và người đàn bà goá quấy rầy trong Tin Mừng, đó là những con người kêu xin. Như vậy nài xin giống như đá thử vàng của một đời sống cầu nguyện. Điều đó muốn nói gì ? Đó là điều làm cho tôi suy nghĩ rằng trong đời sống có người kêu xin hoặc có người không kêu xin, có người quì xuống hoặc có người không. Trong nhiều hoàn cảnh, trong nhiều trường hợp chúng ta không thể nói cách nào khác hơn là : “Hãy cầu nguyện, hãy nài xin, và hãy xin ơn”. Nhiều lần chúng ta gặp những tình huống trong đó chúng ta không thể nói gì khác. Và vào những lúc đó chúng ta sẽ thấy rằng ai đó đang ở với chúng ta, đứng trước chúng ta, sẽ nói : “ Tôi không thể nài xin”. Có người đó kể cho tôi nghe một thử thách, và để vượt qua thử thách đó anh ta chẳng có được một lời khuyên, hoặc một gợi ý nào. Bấy giờ tôi hỏi anh: “ Thế anh có cầu xin không ?”. Anh trả lời: “ Ông không hiểu rằng khi nói với tôi điều đó ông chỉ làm cho gánh nặng của tôi thêm trầm trọng, bởi vì đó chính là điều mà tôi không muốn làm” . Điều đó hiểu ngầm là: “ Đây là điều mà tôi không muốn làm”. Bởi vì một người, khi bắt đầu kêu xin trong cuộc sống, chính điều đó nói lên rằng anh ta là một con người cầu nguyện. Tôi tin là người ta có thể cầu nguyện từng giây từng phút và có thể làm như vậy đến nỗi lời cầu nguyện đó xâm chiếm toàn bộ cuộc sống tùy theo mức độ người ta có thật sự quì xuống để kêu xin không. Có những người cầu nguyện hằng giờ theo cách của những người biệt phái, nhai đi nhai lại những lời kinh nhưng thực ra, họ chẳng cầu nguyện chi cả, vấn đề quan trọng là hiểu ra điều đó.
Có lần một bạn trẻ đến nói với tôi: “Thưa cha, cha biết đó, con chán cầu nguyện lắm”. Tôi trả lời: “Ồ!bạn biết đó, nếu thật lòng mà nói thì chúng tôi cũng chán vậy”, bởi vì chúng ta không thấy sự hiện diện của Thiên Chúa cách hiển nhiên liên tục. Nhiều lần chúng ta đi nguyện ngắm, tôi không nói là đi với đôi chân nặng nề, nhưng đơn giản là chỉ để cho giờ nguyện ngắm một thời gian và một số lần cầu nguyện nào đó; phẩm chất cầu nguyện sẽ đến sau, nhưng trước tiên người ta phải cho số lượng đã. Tuy nhiên tôi muốn nói với các bạn trẻ là: “Các bạn hãy có kinh nghiệm quỳ gối xuống một lần trong đời sống và hãy để cho tất cả những chuyện khác rơi xuống hết, khi đó các bạn mới bắt đầu cầu nguyện thực sự !” Điều đó muốn nói gì? Đó là xin người khác điều mà chúng ta không tự ban cho chính mình. Và các bạn thấy điều đó muốn ám chỉ cái gì. Tôi sẽ nói điều mà Thánh Tôma đã nói: “Ai bắt đầu cầu nguyện, thì người đó làm một phép lạ lớn lao hơn là cho một người chết sống lại”. Xét cho cùng, bắt đầu quỳ xuống, đó là một sự bùng nổ, sự bùng nổ đó huy động toàn bộ con người chúng ta, không phải là những nhân đức mà là những thái độ sâu xa.
Tôi xin lấy một thí dụ quan trọng nhất, đó là sự khiêm nhường. Các bạn biết rõ thế nào là sự khiêm nhường: cách thiết yếu đó là thái độ đứng trước một Ai khác, một Đấng-Hoàn-Toàn-Khác mà ta là thụ tạo. Khi chúng ta đã hiểu Thiên Chúa chiếm chỗ nhất, còn chúng ta ở chỗ thứ yếu, và không có chỗ thứ ba, chỉ có hai chỗ, thì chúng ta cần phải biết là chúng ta đang ở chỗ nào. Chính điều đó là gốc rễ làm phát sinh chủ nghĩa vô thần đương thời, từ chối nhận rằng có một Ai chiếm chỗ nhất. Vấn đề quan trọng là phải nhận biết được điều đó, chính vì thế mà tôi nói cầu nguyện kêu xin là một trắc nghiệm đức tin của chúng ta. Xin với một ai khác, có những người không thể làm được, không thể nói như tiếng kêu của Charles de Foucauld: “Nếu Ngài hiện hữu xin cho con biết Ngài”, bởi vì với họ chuyện đó chẳng hàm chứa gì cả. Mọi người điều có thể thực thi lời nguyện chân thật đó; nhưng dù sao điều đó cũng hàm chứa một cái gì rất sâu xa: Ước chi người ta để cho Thiên Chúa là Thiên Chúa và tự Người mặc khải cho chúng ta. Van nài là lời cầu nguyện căn bản quan trọng hơn tất cả những lời khác trong cuộc sống của chúng ta, và nếu Thánh Phaolô bảo phải kêu van để gọi Đấng đang đến, là bởi vì ngài cảm thấy rõ ràng có những kitô hữu – và đôi khi cả linh mục, tu sĩ –dành thì giờ cho việc cầu nguyện, nhưng lại kông kêu xin.
Việc cầu nguyện trong mùa vọng thiết yếu là một lời kêu van. “Lạy Chúa xin Ngài đến, chúng con chờ đợi Ngài, chúng con không thể chịu đựng hơn được nữa, chúng con đang ở dưới đáy sự khốn cùng, bụng chúng con dính sát đất, miệng chúng con ngậm cát bụi…” Chúng ta kêu lên bằng những tiếng kêu mãnh liệt, mãnh liệt đến nỗi phải nhận rằng thường thường trong khiêm tốn, chúng ta thốt lên những tiếng kêu đó khi nghĩ rằng: “Trong đời sống của tôi điều đó thực sự chiếm bao nhiêu phần trăm? Tôi có thực sự khát khao việc Chúa đến không?” Có thể có nguy cơ nầy là khi đọc những lời cầu nguyện đó chúng ta không có sự dấn thân đủ nơi bản thân chúng ta; nơi chúng ta không có một mức độ chắc chắn nào cho lời van xin. Ta có thể suy niệm, thực hành nguyện ngắm, nghĩa là có thể làm phát triển các tư tưởng, nhưng lại rất ít kêu van, bởi lẽ điều đó mang tính cách nhiệm mầu và hiếm hoi hơn mà các bạn không nghĩ tới. Tôi có quen một bạn trẻ đã trở lại lúc hai mươi tuổi. Bạn ấy đã vào dòng Đa minh. Một hôm trong khi cầu nguyện, bạn đã nghe được một lời. Như mọi người từ nhiều năm nay bạn ấy vẫn nguyện ngắm, cầu nguyện, hát thần vụ, nhưng bạn ấy nghe: “Cho đến bây giờ con chưa xin gì cả. Hãy xin thì con sẽ được” Bạn ấy nói với tôi: “Từ khi đó con có một chút chú ý đối với mầu nhiệm kêu xin. Trước đây con đã nghi ngờ”. Nếu chúng ta nghi ngờ dù một chút thôi thì đã nghi ngờ thực sự rồi.
Trong cuộc đời của các bạn điều quan trọng là phải kêu xin, và chúng ta không được viện bất cứ lý do nào –tôi trước tiên- để không làm chuyện đó, bởi lẽ nó nằm ở tầm tay của mọi người; nó phải được diễn ra trong từng giây phút. Đó kông phải là chuyện khó khăn, nhưng cũng không phải là chuyện dễ, bởi vì nó giả thiết một thái độ nghèo khó, khiêm nhường và phó thác. Điều đó có nghĩa là nói với một Ai khác: “Con chờ đợi mọi sự từ nơi Ngài”.
Tại sao lại phải kêu xin? Quả thật đây đúng là một mầu nhiệm. Tại sao học biết kêu xin lại quan trọng đến thế? Bởi vì nó đụng tới bề sâu trong chúng ta, điều mà ngày nây người ta gọi là sự hiệp thông. Chính trong sự cầu nguyện kêu van mà tất cả những vấn đề hiệp thông giữa con người với nhau được giải quyết. Cái gì có thể làm cho con người có thể gặp gỡ nhau, nếu không phải là bởi vì người nầy nói với người kia: “ Tôi xin anh, anh cho tôi cái nầy nhé !” Nếu không có cái tối thiểu là việc xin xỏ đó thì không thể có thông hiệp được. Cần phải chìa tay ra để ra khỏi mình. Chúng ta có thể biết nhiều chuyện về Chúa Kitô, biết đủ thứ chuyện ; với trí thông minh của mình, chúng ta tự hào có được một chút khôn ngoan, trong khi đó thời gian mùa vọng là thời gian phải làm phát triển trong chúng ta một thái độ khiêm tốn để thốt lên : “ Lạy Chúa là ánh sáng của trần gian, xin hãy đến !”. Chúng ta luôn cần được chiếu sáng. Chúng ta có thể sống rất tốt về đời sống luân lý, không có một lỗi nào đáng khiển trách, nhưng dù sao cũng phải kêu lên : “ Lạy Chúa, xin hãy đến, xin đến cứu chúng con !”, vì lý do đơn giản mà thánh Phaolô diễn tả trong thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô chương 13: “ Bây giờ chúng ta thấy lờ mờ như trong một tấm gương nhưng mai sau sẽ được mặt giáp mặt. Bây giờ tôi biết chỉ có ngần có hạn, mai sau tôi sẽ được biết hết như Thiên Chúa biết tôi”. Tại sao lại phải kêu xin như thế? Vấn đề là sự cảm thông, bởi lẽ Chúa Kitô là một con người và để biết một con người không có ba mươi sáu cách đâu. Như Gabriel Marcel nói, để biết người kia cần có một lời kêu van: “ Hãy cho tôi thấy khuôn mặt bạn, hãy nói cho tôi, bạn là ai vậy !”. Không có cách nào khác. Điều đó còn đi rất xa. Nó thuộc về chính mầu nhiệm của con người.
Với những cố gắng nghiên cứu, cố gắng thâm nhập bằng trí tuệ, bằng suy tư, các bạn có thể biết được tâm lý của một người ; nhưng dù có những cố gắng của ý chí, của trực giác, các bạn không bao giờ có thể biết được bí mật của người đó. Nhà thơ nào đó đã nói: “ Mỗi hữu thể có bí mật riêng của nó. Mỗi con người có mầu nhiệm riêng”. Đặc tính của bí mật đó là gì? Một cách chính xác đó là: nó chỉ được biết khi nào người ta vén mở cho kẻ mình muốn cho biết thôi. Mầu nhiệm của mạc khải là thế đó; tấm màn được cất đi để sau cùng hiểu được mầu nhiệm. Chừng nào người ta không nhìn thấy thì người ta cũng sẽ không biết được. Trong tác phẩm “ Thời gian của một tiếng thở dài” ( le temps d’un soupir) một cuốn sách đã được tái bản nhiều lần, Anne Philippe nói “ biết rõ mình quá sẽ giết chết tình yêu, với tình yêu thì mầu nhiệm là điều thiết yếu, cũng giống như mặt trời cần cho lúa mì, nhưng mầu nhiệm không cần được vun trồng tí nào cả, gìn giữ nó tức là công nhận tính mong manh của nó ; chúng ta càng đi xa trong thế giới tri thức, thì chúng ta càng nhận thấy mầu nhiệm vẫn tồn tại”. Đó là điều hiển nhiên. Các bạn càng tiến vào trong mầu nhiệm của Thiên Chúa, thì các bạn càng cảm thấy, như thánh Gioan Thánh Giá nói, chìm vào trong bóng tối. Và người ta biết điều đó. Thiên Chúa không phải là bóng tối tự nơi chính mình, nhưng Người là bóng tối vì Người là cường độ của ánh sáng. Nếu ánh sáng chói lòa thình lình ập xuống trên các bạn, thì các bạn sẽ không nhìn thấy gì cả.
Mầu nhiệm đầu tiên ởû đây đó là một Ngôi vị, và chúng ta không ngừng đặt câu hỏi : “Ngài là ai ? Hãy nói cho con biết Danh của Ngài ! Hãy cho con thấy khuôn mặt của Ngài !” Chúng ta thử tiếp cận với các nhân vật của Kinh Thánh, Môisê…và hơn hết là Chúa Kitô ; Đức Kitô không chỉ là một con người , mà là Con Thiên Chúa, Ngôi Lời nhập thể. Dù sự hiểu biết bằng trí khôn và khám phá của chúng ta về Người có đạt đến đâu đi nữa, thì bước tối thiểu trong việc hiểu biết Chúa Kitô phải là mộtï ân ban của Cha. “ Không ai đến được với Tôi nếu Cha Tôi không lôi kéo”. Hãy xin Cha lôi kéo bạn về Chúa Kitô. Đó là một sự thu hút. Tất cả là ơn ban trong đời sống thiêng liêng. Nếu hôm nay tôi phải viết một cuốn sách, thì tôi sẽ không đặt tên cho cuốn sách đó là: “ Sức mạnh của lời cầu nguyện” nữa, nhưng đúng hơn: “ Ân sủng của lời cầu nguyện”, bởi lẽ nó là điều đầu tiên cần phải biết. Cầu nguyện là một ơn ban. Hỡi các nam nữ đan sĩ chiêm niệm! Chúng ta có thể có một tiếng gọi, một tiếng gọi thực sự sống đời sống cầu nguyện, nhưng chúng ta có thể không phải là những con người cầu nguyện, bởi vì chúng ta đã không xin ơn cầu nguyện. Chắc chắn, sự hiểu biết về Chúa Kitô là một ơn ban cần phải xin: “ Lạy Cha, xin cho con nhận biết Con Cha”. Nhưng nhận biết Con Cha theo xác thịt thì không đủ như thánh Phaolô nói: “ Tôi đã không biết Người theo xác thịt, nhưng tôi biết Người trong Thần Khí”. Phải biết Người thật sự trong quyền năng Thần Khí như được diễn tả trong thành ngữ sau đây: “la dynamis tuteu”, quyền năng của Thiên Chúa, quyền năng của sự Phục Sinh mà không gì khác hơn, chính là Chúa Thánh Thần. Cần phải khám phá cho tới đó.
Đôi khi những bạn trẻ nói: “Ôi ! Như Cha biết đó, chúng con không có may mắn sống với Chúa Kitô, chúng con đã không thấy Người”. Nếu chúng ta và tôi trước tiên, đã sống với Chúa Kitô thì chúng ta đã chẳng dễ dàng nhận biết Người hơn so với những người thuộc thời Người. Chúng ta có thể thấy Người làm những phép lạ ngay trước mắt, thi hành những lời tiên báo, nhưng chúng ta có thể không nhận ra Người. Chính Chúa đã nói điều đó, thánh Gioan cũng nhắc lại ở chương thứ 3 rằng: Chúa Giêsu đã làm nhiều dấu la, có nhiều người tin vào Người, nhưng Người lại không tín nhiệm họ, bởi lẽ để nhận ra Người, rất cần phải thấy nơi Người có cái gì bí mật của Thiên Chúa, có đời sống của Ba Ngôi, và có Thiên Chúa ở với Người. Nếu các bạn không nghiệm thấy được dòng nước sống và ngọn lửa có nơi Chúa Kitô, thì các bạn hãy xin cho thấy được điều đó. Ở chương 14 Phúc âm thánh Gioan, các tông đồ nói: “Bây giờ Thầy không nói với chúng con bằng dụ ngôn nữa”. Ngài trả lời: “À phải ! Thầy không nói với anh em bằng dụ ngôn nữa, Thầy nói thẳng ra với anh em”. Tại sao ? Bởi vì “ Tất cả những gì Thầy biết về Cha thì Thầy nói cho anh em biết” . Các bạn hãy nghĩ đến chuyện đó khi chiêm ngắm, và thờ lạy Thánh Thể. Mục đích đầu tiên của việc thờ lạy là cùng với Chúa Kitô đi vào trong bí mật của Cha, và tôi phải nói rằng người ta phải để cả cuộc đời của mình để thăm dò mầu nhiệm này. Và ta có thể biết được mầu nhiệm ấy theo kiểu vật chất. Các bạn có thể biết rất rõ về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi theo một cách mà tôi xin được diễn tả là có tính qui tắc, hệ thống, nhưng các bạn chưa biết được đáy sâu của mầu nhiệm, vì thế cần phải được Thiên Chúa mạc khải.
Các bạn thấy quan trọng biết bao là việc cần ra khỏi chính mình và thốt lên lời kêu van để có được chuyện đó. Người nào càng không chịu quỳ gối xuống với những tâm tình tạ ơn, ngợi khen và yêu mến, thì nơi người ấy sẽ có một phần khác mãnh liệt hơn chỗi dậy đấu tranh vàphản đối lại thái độ trên. Ta bảo ta yêu mến, nhưng thử hỏi thực sự ta yêu mến đến mức độ nào? Càng tiến lên trong đời sống thiêng liêng ta càng khám phá có biết bao vùng trong ta mà ta chưa làm chủ. Chúng ta nghĩ rằng chúng ta là chủ của chính mình cũng như của vũ trụ, nhưng khi có chút tiến bộ chúng ta lại phải xác nhận rằng chúng ta là những con người nghèo nàn. Lúc bấy giờ chúng ta hiểu ra rằng chúng ta không thể tự ban cho chính mình, chúng ta cần phải xin một cách khiêm tốn. Tôi xác nhận – và tất cả các thánh cũng nói thế ở cấp độ siêu hình – là không có một lối thoát nào khác, và với phần lớn các thánh, điều làm nên đỉnh cao của đời sống thiêng liêng ấy chính là cách biết kêu van.
Xét cho cùng, vị thánh là con người không có một giải quyết thay đổi nào khác ngoài việc kêu van. Chúng ta luôn tìm một giải quyết thay đổi nho nhỏ nào đó từ phía chúng ta trong trường hợp mà kêu van không được ổn lắm! Chính vì điều đó mà lời cầu nguyện của chúng ta không có được sức mạnh và quyền năng có thể dời núi chuyển non, sức mạnh và quyền năng mà đôi khi người ta gặp thấy nơi những đứa trẻ và người khiêm tốn, những người đang đi trên đường phố Bac, chẳng hạn. Những người khố rách áo ôm, họ chỉ còn có lá bài duy nhất để chơi, khi đó họ đặt tất cả vào lời cầu nguyện và họ thu được tất cả. Nếu lời van xin của chúng ta không có sức mạnh tuyệt vọng này, một sức mạnh có thể bứng núi non lên và chuyển dời ra biển, thì đó là vì chúng ta muốn giải quyết bằng sự thay đổi, chúng ta không hoàn toàn phó thác cho lời cầu nguyện này.
Tôi muốn nói với các bạn ngay rằng rất là cheo leo khi mới bắt đầu cầu nguyện. Nếu có biết bao người lẩn tránh sự cầu nguyện, đó không hẳn là họ không có thời gian. Khi tôi nghe ai đó nói với tôi: “ Cha biết đó, đời sống chúng con rất náo động, chúng con phải làm chuyện này chuyện nọ”, đó không phải là chuyện ngăn trở việc cầu nguyện. Điều ngăn trở cầu nguyện, đó là khi người ta biết rõ rằng nếu người ta dấn thân vào trong đời sống ấy, thì sẽ phải dấn thân hoàn toàn. Với viễn tượng đó người ta nhẹ nhàng rút lui: “ Chưa được! Phải một thời gian nữa tôi sẽ dấn thân, còn bây giờ thì chưa!”
Vài người sẽ nói với tôi: “Thưa cha, dầu sao, thì sự thánh thiện không cốt ở chỗ cầu nguyện xin ơn, mà là ở tình yêu”. Một hôm có người nói với tôi: “thưa cha, kêu xin là một giai đoạn phải vượt qua. Còn con, con đang ở trong tình yêu và trong sự ca ngợi”. Ồ, tôi hoàn toàn đồng ý với bạn, nhưng thế nào là một tình yêu không kêu xin?! Bạn đã thấy một tình yêu không kêu xin chưa? Ngay cả tình yêu của Thiên Chúa cũng van xin chúng ta, đó là thái độ mang tính thần linh nhất. Mở cuốn Kinh Thánh ra bạn sẽ thấy. Mùa vọng đó là thời kỳ mà con người sửa soạn để đi về với Thiên Chúa, Đấng đã muốn tỏ mình ra cho con người.
Khi các bạn cầu nguyện, các bạn chỉ lời đáp trả lời van xin của Thiên Chúa. Xét cho cùng, ra sức tìm kiếm, điều đó không có nghĩa như thể chúng ta kêu van Người, nhưng chính Người van xin chúng ta! Người xin gì từ chúng ta ? Từ năm này qua năm khác, Người nói với chúng ta điều này: “ Con có cần Ta không? Con có cần Con của Ta không ?”. Trong sách sáng thế câu đầu tiên Thiên Chúa nói với Adam, mà các bạn cũng như tôi đã biết, đó là: “ Ngươi ở đâu ?” đó không phải là lời xin sao? không phải là một tiếng xin sao ? Và lời van xin cuối cùng mà Ngài sẽ thốt ra: “ Hãy đến ! Hãy đến ! Ta cần con !” (Khải Huyền). Đó là một lời van xin. Thiên Chúa van xin. Người là người đầu tiên biết được thế nào là cầu nguyện. Khi chúng ta cầu nguyện chúng ta chỉ làm chuyện đáp trả lại lời cầu xin của Thiên Chúa. Và tôi cũng sẽ nói ngay là nếu các bạn nhìn kỹ các Ngôi trong Ba Ngôi Thiên Chúa, thì các bạn sẽ thấy: Các Ngôi xin lẫn nhau. Thế nghĩa là gì ? Nghĩa là Ngôi này và Ngôi kia gọi nhau, “ Con là Con của Cha” , “Cha là Cha của Con”. Đó là gì nếu không phải là một lời xin? Các Ngôi gọi nhau. Cuộc đối thoại này thật sự là một lời cầu xin đến nỗi nó không còn nằm ì ra đó nữa, nhưng nó máy động từng giây phút. Cũng vậy, khi chúng ta cầu nguyện, chúng ta chỉ đáp lại lời kêu xin của Thiên Chúa: “Con có cần Ta không?” Chính vì thế không được bỉu môi trước lời cầu xin mà nói: “ Đó là một thái độ cần phải bỏ qua”. Ta không được bỏ qua thái độ của Thiên Chúa. Cha, Con và Thánh Thần còn nói với nhau lời cám ơn, và các Ngài xin với nhau, nói cám ơn với nhau, và các Ngài rất là hạnh phúc. Như Chúa Kitô nói: “ Cha với Ta, Chúng Ta Là Một”, “ Mọi sự của Cha là Của Con, và mọi sự của Con là của Cha”.
Ởû trong Cha và Con rung lên một chuyển động yêu thương vô cùng bao la, trong đó lời xin và lời ngợi khen quyện lấy nhau. Nếu không có mạc khải về Ba Ngôi Thiên Chúa, nghĩa là nếu Chúa Giêsu không đến mạc khải Cha cho chúng ta, thì chúng ta không thể nói gì về sự kêu xin, sẽ không có sự van xin. Mỗi lần Chúa Kitô nói về sự cầu nguyện trong Tin Mừng ( x Lc 11: người bạn quấy rầy, hay Lc18) thì Người dùng những thí dụ về ông này bà nọ đến xin một người khác. Khi Chúa Kitô nói về người bạn quấy rầy, Người đặt mình vào địa vị của người bạn quấy rầy đó, Người gõ cửa chúng ta bởi vì chúng ta đã đóng chặt cửa lòng, từ chối mở lòng ra với Người, từ chối quì xuống. Các bạn hãy thử kinh nghiệm một lần quì xuống, với lòng thành thật, trong thái độ kêu van. Các bạn sẽ thấy có một cái gì đó xảy ra. Thiên Chúa chỉ ăn xin. Như Olivier Clément nó: “Các bạn hãy mở cửa lòng của các bạn ra cho Đấng ăn mày tình yêu đang gõ cửa !” Và đó là đoạn 3 câu 10 sách Khải Huyền: “ Đây ta đứng ở cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mởi cửa, Ta sẽ dùng bữa tối vơiù nó, nó với Ta và Ta với nó”. Người chỉ ăn mày lời cầu xin của chúng ta, bởi lẽ đó là điều duy nhất mà chúng ta có thể cho Người.
Tôi không biết các bạn có nghĩ rằng chúng ta có thể cho Thiên Chúa cái gì đó không? Khi tôi còn trẻ, tôi tưởng tôi có thể cho Người tình yêu, nhưng tình yêu thì chính Người ban cho tôi ! Nhân đức, cũng chính Người ban cho. Người cho chúng ta tất cả! Còn chúng ta, chúng ta có thể cho Ngài cái gì? Hỡi các bạn! Người nói với chúng ta rằng Người chỉ cần chúng ta cho Người cái chúng ta Là: cái trống rỗng của chúng ta, con người của chúng ta, nỗi khốn quẫn của chúng ta. Các thánh bị đánh động rất nhiều bởi thái độ nghèo hèn đó. Cha sở họ Ars đã nói: “ Con người là một hữu thể nghèo nàn, luôn cầu xin mọi sự từ Thiên Chúa”. Chúng ta không biết xin Thiên Chúa. Xét cho cùng, điều mà chúng ta thiếu đó là cách chúng ta xin Thiên Chúa, kêu van Người đến trong chúng ta. Tôi thường nói câu sau đây: “ Phải xin với Thiên Chúa cách dễ thương và tế nhị”. Nghĩa là phải kiên trì kêu xin. Tất cả những ai cầu nguyện đều là những con người kiên trì nài van. Theo một nền thần học truyền thống tốt lành, kêu van, hoàn toàn không phải là chuyện bắt Thiên Chúa muốn điều chúng ta muốn, nhưng sau cùng là để đưa chúng ta tới chỗ muốn điều Thiên Chúa muốn.
Việc cầu nguyện khơi sâu nơi chúng ta một tiếng kêu chưa trào dâng, nhưng chắc chắn một ngày nào đó nó sẽ vọt lên ; ngày đó chúng ta sẽ có tất cả. Hãy nghĩ đến lời sau đây: “ Từ vực thẳm con kêu lên Ngài, Lạy Chúa”. Tôi tin rằng chúng ta không bao giờ lặn sâu cho đủ để kêu lên cùng Thiên Chúa. Khi chúng ta thực sự đi vào trong cái đáy nghèo hèn, thì Thiên Chúa sẽ nhậm lời chúng ta. Các bạn hãy coi tất cả những người tin, trước khi Đấng Mêsia đến. Đó là những người nghèo, họ chờ đợi, họ chú tâm hướng về Thiên Chúa. Còn các bạn, các bạn bắt đầu kêu xin thế nào? Hỡi các bạn! Các bạn đã sẵn sàng kêu xin từ lâu rồi! Nhưng hãy bắt đầu kêu xin đi! Bất cứ ở đâu, bất cứ cách nào, khi gặp khó khăn trong cuộc sống, trong những lúc các bạn sợ hãi, lo lắng hay đau khổ, các bạn hãy kêu xin. Nếu mọi sự cứ trôi chảy như không có vấn đề gì! Đó mới là vấn đề! Vì các bạn sẽ không có dịp để kêu van ! Nhưng tôi tin chắc rằng các bạn cũng như tôi có rất nhiều cơ hội để kêu van. Dù sao, trong cuộc sống, nếu các bạn không có dịp, thì chắc chắn qua người khác các bạn sẽ có những cơ hội, bởi lẽ khi ta lắng nghe một chút điều mà người khác nói, thì ta không thể không kêu xin. Điều làm cho các thánh thốt lên lời cầu xin, đó có thể không phải là điều họ kêu xin cho họ. Thánh Têrêxa Avila nói điều đó với các chị em nữ tu dòng kín Camel và tôi hay nhắc lại điều đó mỗi khi giảng cho các chị em: “ Nếu các chị đến đây chỉ để sống cầu nguyện hoàn toàn có tính cách cá nhân mà không nhắm tới chuyện mang lấy lời cầu xin của những người khác, thì tôi xin phép nói với chị em rằng chị em không trung thành với mẹ thánh Têrêxa !” Mẹ đã nói: “ Thế giới đang ở trong tình trạng hỗn loạn, làm sao người ta lại có thể xin với Thiên Chúa những điều không mấy quan trọng !” Chúng ta hãy kêu xin cho sự cứu độ thế giới, cho triều đại của Chúa. Vậy tôi xin các bạn: hãy kêu xin khi các bạn gặp khó khăn, rồi các bạn sẽ thấy, nếu đã bắt đâu kêu xin một lần, thì dần dà trong đời sống, việc kêu xin sẽ trở thành một thói quen. Con tim chúng ta giống như đầu máy xe lửa yếu; cần phải mang lại cho nó sức vui thú trong cầu nguyện. Người ta kêu xin một lần, rồi hai lần ; đến lúc nào đó điều ấy trở nên như hơi thở hầu như thường xuyên, như thánh Phaolô nói: “ Anh em hãy cầu nguyện và hãy kêu van trong mọi lúc”. Các bạn biết rằng điều đó có thể trở thành thường xuyên nhờ một biến cố, một sự đau khổ hoặc một con người mà chúng ta gặp gỡ. Chính từ cuộc sống mà chúng ta cần phải đến với Thiên Chúa với khí giới và hành trang: khí giới là ý chí chiến đấu và hành trang là những biến cố của cuộc đời. Thái độ này phải trở nên thường xuyên. Thánh Phaolô bảo: hãy cầu nguyện không ngừng và Chúa Kitô cũng đã nói trước đó trong Luca 18.1: “ Phải cầu nguyện luông đừng nản chí”.
Nhưng trong đời sống thiêng liêng có những lúc gặp khó khăn. Khi bắt đầu thấy mình không thể cầu nguyện liên tục được, ta tự nhủ: “ Dù sao còn có chuyện khác để làm trên trái đất này cơ mà”. Này, không phải thế ! Không có chuyện gì khác để làm cả, chỉ có việc kêu xin mà thôi. Và tôi muốn lập lại rằng điều đó được thực hiện trong đời sống thường nhật và bình thường nhất. Phải thực sự kêu xin, khởi đi từ nhu cầu mà ta nhận được từ Thiên Chúa , vì biết rằng “nếu anh em xin nhân danh Thầy, thì anh em sẽ được”. Thái độ nghèo là thái độ duy nhất có thể mang lại niều vui cho con người .
Có một thành ngữ trong thư của thánh Phaolô: “anh em hãy vui lên”. Tôi đã nghe nhiều bài giảng nói về niềm vui, và chắc chắn các bạn cũng thế; thực tế, các bài giảng đó đã không bao giờ làm tôi mãn nguyện. Tại sao ? Bởi vì người ta nói với tôi: “ Bạn hãy vui lên”, trong khi điều đó không phụ thuộc vào họ cũng như vào tôi. Ta đón nhận niềm vui từ Thiên Chúa, đó là một ơn ban. Nếu không thì dù ta có gắng sức cũng vô hiệu, niềm vui sẽ không đến. Vì vậy điều đầu tiên phải xin, đó là xin cho được niềm vui. Chỉ có những người nam nữ cầu nguyện, chờ đợi Thiên Chúa, chỉ các thánh, những người đã sống thân mật với Chúa, mới có thể sống hạnh phúc, kiên nhẫn, tốt lành, và nhất là có khả năng chuyển đến cho anh chị em mình hơi ấm của Thiên Chúa, tia sáng của vinh quang Ngài: Niềm vui. Có những người toả sáng ra trong đời sống của họ, có những vị thánh chiếu sáng. Ta không tự ý toả sáng được, khi ta quyết định chiếu sáng. Trong đời sống Kitô giáo, có cái bất hạnh này là: Người ta dạy chúng ta tin rằng chúng ta có thể đạt được niềm vui và chiếu toả ra nhờ vào ý chí và cố gắng của trí khôn, nhưng chúng ta đã không khám phá ra được cái gì cả. Với ý chí và lý trí người ta có thể đạt được chuyện gì đó. Nhưng người ta không thể toả sáng, không thể đạt tới niềm vui đích thực được chỉ với ý chí và lý trí. Niều vui thật đó là cái gì nằm bên trong con tim của một con người, nó có thể ở bên trong một con tim bị giằng xé bởi những thống khổ. Niềm vui và đau khổ cùng ngự trị trong con tim của con người: Các thánh nói rằng đó “vừa là núi Sọ vừa là núi Tabo”. Họ đau khổ bởi vì họ bị đóng đinh, nhưng họ đau khổ trong niềm vui. Nếu người ta có thể nghi ngờ về đau khổ của Chúa Kitô khi chịu khổ nạn, thì đó là đau khổ vì thấy tình yêu không được đáp trả.
Những ai đã sống tình thân mật với Thiên Chúa thì có thể giải quyết nhiều vấn đề, nhưng không thể giải quyết tất cả mọi chuyện, bởi vì các vấn đề vẫn còn đó. Tuy vậy, ít ra họ có bí quyết để ứng xử và các bạn sẽ không bao giờ làm cho họ hoàn toàn mất bình tĩnh. Người nào đã tìm gặp sự thân mật với Thiên Chúa, thì dù bạn có ngược đãi và ngay cả làm rối tung lên, thì chỉ cần năm phút để hồi tâm, họ sẽ tìm được sự tiếp xúc với Chúa, nhờ đó, gặp lại được niềm vui và bình an. Những người nam, người nữ ấy, có cái bí mật của hạnh phúc. Nhưng không có nghĩa là họ không đau khổ bằng, hoặc đôi khi hơn người khác. Họ dõi theo đời sống của các thánh, họ đau khổ, nhưng sau cùng họ hạnh phúc. Bạn cần lưu ý điều này: chỉ những người hạnh phúc mới có thể tránh được chuyện trở thành những kẻ gian ác, và cũng chỉ những người hạnh phúc mới có thể yêu mến người khác. Còn ngược lại, thì người ta không yêu mến. Tưởng rằng mình yêu mến, nhưng người ta yêu bằng một sự cố gắng của ý chí. Do đó không phải là tình yêu phát xuất từ những nơi sau thẩm của con tim. Chính vì lẽ đó mà tôi thường nói với các kitô hữu: “Nếu các bạn không có tình thân mật với Chúa Kitô, không thật khao khát muốn sống với Người, thì các bạn sẽ không thể có hạnh phúc”. Và tôi tưởng rằng đó là điều thiếu sót nhất nơi những người Tây Phương chúng ta.
Phần lớn các Kitô hữu, dù họ là những người cấp tiến hay bảo thủ, đều thiếu niềm vui. Có vài người đạt được cái mà họ gọi là đức tin rất chắc chắn, rất hợp lý, nhưng phần lớn họ đã đánh mất việc tiếp xúc với Ngôi vị của Đức Kitô. Và một kitô hữu nào đó không có gì để làm cho Chúa Kitô, không thể nói chuyện với Ngài, thì không phải là một Kitô hữu vững mạnh, ngay cả khi người đó có một đức tin sâu xa, đúng với truyền thống, và sống rất quảng đại. Một Kitô hữu là một con người thật sự có cái khao khát gặp gỡ Chúa Kitô và khao khát chính mình Người : đó là nét độc đáo của chúng ta so với các niềm tin khác. Các bạn hãy xem người Hồi Giáo, người Mác-xít, người Phật Giáo, điều làm nên học thuyết và đức tin của họ phát xuất từ việc nghiên cứu đời sống của Mahomet, đời sống của Marx, và đời sống của Đức Phật. Nhưng tối đến, khi lên giường ngủ, không ai trong họ lại nói: tôi nói chuyện với Mahomet, tôi nói chuyện với Marx, tôi nói chuyện với Đức Phật! Còn chúng ta, chúng ta có khả năng gặp gỡ Chúa Kitô. Và đâu có ai nói : Vì Marx tôi đã từ bỏ tất cả ? Không, anh ta chỉ nói: tôi hy sinh cả cuộc đời của tôi. Trong khi thánh Phaolô lại nói: “ Vì Người tôi đành mất tất cả”. chính một Khuôn mặt Người đã thu hút tôi, vì Khuôn mặt đó mà tôi thí đi tất cả, và tôi đã làm điều đó. Việc tiếp xúc với Chúa Kitô là yếu tố tạo nên một vị thánh, một con người tìm kiếm, tìm kiếm chính Người. Có thể các bạn ở ngay bên cạnh một vị thánh mà không biết. Chẳng ai để ý đến họ. Họ rất là kín đáo. Các bạn không quan tâm đến điều này là, ngay khi có được một chút rảnh rỗi, vị thánh ấy tiếp xúc ngay với Chúa Kitô. Tìm kiếm Chúa Kitô, điều đó có cái gì na ná như rà làn sóng Radio. Thường thường có những sóng nhiễu làm cho ta khó nghe, nhưng với sự kiên nhẫn, ta sẽ bắt được lời Đấng Cứu độ, và khi ta đã nghe được hai ba lần rồi thì không thể bỏ qua được nữa, ta sẽ không mệt mỏi đi tìm Lời của Thiên Chúa.
Để kết luận tôi muốn nói với các bạn rằng trong đời sống của chúng ta có một tình cảnh rất đặc biệt để gặp gỡ Chúa Kitô, đó là nỗi thống khổ. Có lẽ giữa chúng ta có những người đã có kinh nghiệm đó. Khi ta ở vào trong tình cảnh khó khăn, ta mới biết thế nào là kêu lên cùng Thiên Chúa. Và khi nhìn thấy đời sống của các thánhø ta tự nhủ: “Các ngài được biết bao ân huệ, làm thế nào mà họ có thể có được như vậy? ”. Ồ ! có lẽ người ta không thấy được sức nặng, chiều sâu của sự kêu xin: nỗi thống khổ của họ. Vì để chạm tới được con tim Thiên Chúa cần phải đi tới cùng. Thiên Chúa muốn nghe thấy tiếng kêu từ đáy nỗi khốn cùng. Khi ấy Thiên Chúa không thể không đáp lời. Chúng ta hãy chạy tìm, kêu van xin Chúa đến giúp: “A ! Giá như Ngài xé trời mà đến !”. Simone Weil nói: “nếu có một khao khát thật sự, nếu đối tượng của sự khao khát thật sự là ánh sáng, thì sự khao khát ánh sáng sẽ là phát minh ánh sáng”. Khao khát hướng về Thiên Chúa là sức mạnh duy nhất khả dĩ đưa tâm hồn vươn lên. Chính xác hơn chỉ mình Thiên Chúa đến chụp lấy tâm hồn và nâng nó lên, nhưng chỉ có khao khát mới buộc Thiên Chúa đi xuống, Người chỉ đến với ai kêu xin Người đến. Những ai xin một cách thường xuyên, kiên trì, và sốt sắng thì Chúa không thể không xuống trên họ. Đó là ơn mà tôi cầu chúc cho các bạn.
Lời chỉ dạy này cũng như phần tiếp theo,
Jean La france đã cống hiến cho chúng ta khi sưu tập lại,
nhưng cho tới giờ chưa hề được phổ biến công khai bằng bài viết.
II. SUỴT ! ĐỪNG ỒN ÀO
Trong thinh lặng, Mẹ Maria chuẩn bị đón Chúa Giêsu. Việc hồi tâm rất quan trọng, phụng vụ cũng lưu ý chuyện đó. “ Đối với Ngài ngay cả thinh lặng cũng thành lời ca ngợi và kêu xin”. Về thinh lặng của Mẹ Maria, tôi xin rút ra ba điểm. Trước tiên thinh lặng của Mẹ Maria cho đến ngày Tuyền Tin, tức là cho đến mầu nhiệm nhập thể, kế đến là khi Mẹ cưu mang Chúa Con trong lòng, sau cùng là thinh lặng vào cuối đời của Mẹ, từ nhà tiệc ly cho đến khi Mẹ chết. Chắc chắn có những lúc thinh lặng khác nhau trong cuộc đời của Mẹ Maria, Mẹ luôn là người thinh lặng và chú tâm. Nhưng ba thinh lặng mà tôi vừa nêu trên đánh dấu thực sự ba thời kỳ trong đời sống của một người phụ nữ đã chuyên chú về mầu nhiệm của Thiên Chúa.
Sự thinh lặng thứ nhất đó là thinh lặng trước khi có Mầu nhiệm nhập thể, thinh lặng có tương quan với lời nói. Mẹ Maria đón nhận Lời của Thiên Chúa mặc xác phàm, nên Mẹ đã thinh lặng hơn bất cứ ai khác. Các bạn biết rõ Thiên Chúa không lắm lời. Người không nói vu vơ. Đó là điều khác với chúng ta là những con người đáng thương. Cần phải thường xuyên suy nghĩ rằng: chúng ta là những con người được trao cho nhiệm vụ mang Lời Thiên Chúa đến cho thế giới. Khi một ai đó nói ra, thì người đó diễn tả những suy nghĩ, những ý tưởng, những tâm tình nhưng lại không diễn tả được chiều sâu của con người mình. Trái lại khi Thiên Chúa nói, Người chỉ có thể nói tới cái chiều sâu, chỉ có thể nói chính Con của Người, cũng chính là bản thể Người, như thư gửi tín hữu Do Thái, chương thứ nhất nói: “Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử”, Đấng rạng ngời vinh quang của Người, hình ảnh của bản thể Người. Nghĩa là khi Cha nhìn thấy trước mắt Lời của Mình, thì Người thấy một phản ảnh vinh quang của Mình, đồng thời Người nhìn thấy bản thể của Mình là yếu tố làm nên hữu thể Người.
Bi kịch đối với chúng ta, đó là chúng ta đã không nói điều chúng ta làm và không làm điều chúng ta nói. Điều bi đát, nỗi đau khổ vô cùng của một người cha, đó là ông không đựơc hoàn toàn ở trong đứa con của mình mà thường thường, khoảng mười bảy tuổi, đứa con muốn tách biệt hoàn toàn với cha của nó. Đức Kitô là hữu thể duy nhất đã hoàn toàn trùng hợp với Cha Người. Tôi xin phép được nói với các bạn điều này – điều này không mang tính cách thần học, nhưng sẽ soi sáng cho các bạn – Người là hữu thể duy nhất hiệp thông trọn vẹn với Cha. Còn chúng ta, chúng ta có nhiều vấn đề về người cha. Tâm lý học nói cho chúng ta biết điều đó. Chúng ta phải im lặng vì Đức Nữ Trinh đã lặng thinh và bởi lời nói hay phỉnh gạt chúng ta. Thật là nghịch lý khi một nhà thuyết giáo nói rằng cần phải im lặng, ông ta có làm thinh được đâu. Nhưng cái thú vị trong việc thuyết giảng không phải là điều mà người ta nói. Các Giáo Phụ lưu ý: “Anh chị em đừng chú ý đến điều tôi nói, nhưng hãy chú ý đến điều tôi không nói, đến mầu nhiệm mà tôi đang dẫn anh chị em vào”. Những người thuyết giảng không luôn luôn đánh động được con tim của con người. Tất cả những lời mà một linh mục thốt ra, dù trong khi thuyết giảng hoặc trong khi đối thoại cá nhân, chỉ có thể sinh hoa trái nếu nó được tác động bởi ân sủng. Đó là yếu tố quan trọng mà những ai dấn thân cho việc cầu nguyện cần phải có, bởi vì họ xin cho lời đó trở nên linh hoạt, có khả năng đem lại sinh khí.
Toàn bộ đời sống thiêng liêng sẽ nói với chúng ta rằng để nghe được lời của Thiên Chúa, cần phải thinh lặng. Thinh lặng của Mẹ Đồng Trinh trước ngày Truyền tin là một sự thinh lặng hoàn toàn có tương quan với việc nghe Lời Thiên Chúa. Nhiều năm về sau xuất hiện một người, thánh là Gioan Thánh Giá, Ngài nói : “ Chúa Cha chỉ nói một Lời duy nhất, đó là Con của Ngài, Ngôi Lời của Ngài. Ngài nói Lời đó trong sự thinh lặng vĩnh cửu, chính trong thinh lặng mà tâm hồn nghe được Lời của Chúa”. Chính vì thế mà ta phải thinh lặng như Đức Nữ Đồng Trinh.
Cần đưa ra đây hai chuyển động trong việc cầu nguyện của chúng ta. Có những ngày ta kêu van, ta kêu rất lớn lên cùng Thiên Chúa, và có những ngày ta rút vào trong thinh lặng. Con người phải thinh lặng để đón nhận Lời của Người. Chính để đón nhận lời đó mà Mẹ Maria cần thinh lặng, một sự thinh lặng như thế hoàn toàn trống rỗng về mọi tư tưởng, mọi ước muốn, và ngay cả mọi chờ đợi. Mẹ Maria đã trở nên sự thinh lặng. Nói đúng hơn, như thể Chúa Cha đã đặt Mẹ vào trong sự thinh lặng hoàn toàn trước mặt Người để một ngày nào đó Mẹ có thể đón nhận Lời Thiên Chúa. Dần dần Mẹ quen với việc sống thinh lặng, và chính vì thế mà chúng ta phải nhìn Mẹ để lắng nghe Lời của Thiên Chúa nói với Mẹ trong Kinh Thánh. Dần dà Mẹ đã học được sự thinh lặng này, một sự thinh lặng trở nên trống rỗng với chính mình để đón lấy Lời của Thiên Chúa, đón lấy chính Ngài. Cái nguy hiểm của những kỹ thuật bên Đông, đó là chúng có nguy cơ làm trống rỗng con người nhưng lại không cho phép con người lấp đầy chính mình sự hằng sống của Thiên Chúa. Còn chúng ta, chúng ta chấp nhận một sự trống rỗng nào đó bởi vì chúng ta biết rằng Thiên Chúa sẽ lấp đầy chúng ta. Thánh Gioan Thánh Giá nói : “ Cần phải trải qua tình trạng không có gì, để tìm lại tất cả”. Lúc nào đó khi đã trải qua tình trạng ấy, ngài nói : “ Đất thuộc về tôi, trời thuộc về tôi, Mẹ Đồng Trinh thuộc về tôi…”; tất cả tạo thành tuôn đến với ngài, nhưng tạo thành đó dường như đã được thanh luyện, một tạo thành mà có lẽ ngài chưa hề đụng tới. Điều đó rất quan trọng đối với đời sống thiêng liêng của chúng ta, cách riêng với những lãnh vực mà chúng ta biết tới, dù đó là lãnh vực thuộc về những lợi ích của con người, những tình cảm tốt lành của chúng ta… đôi khi chúng ta cần từ bỏ mình để tìm gặp lại chúng.
Vậy chính Đức Nữ Đồng Trinh đã hoàn toàn sống trong sự thinh lặng, và dần dần điều đó đã đưa Đức Mẹ đến sự thinh lặng sâu xa hơn, như cha Raguin nói: “khi Thiên Chúa nghĩ rằng Mẹ đã thực hành đủ sự thinh lặng này tuỳ theo sức của Mẹ, thì Thiên Chúa đã đặt Mẹ vào trong sự thinh lặng còn sâu xa hơn”. Và khi ấy Mẹ Maria thinh lặng hơn tất cả mọi người. Trong cửa kính của một nhà thờ chính toà Chartres, Đức Nữ Đồng Trinh đứng trên ngọn của cành Jessê. Tất cả các tiên tri, Abraham, những người tội lỗi hay không tội lỗi thì ở xung quanhø chiêm ngắm Đức Maria. Mẹ Đồng Trinh đã được Thiên Chúa chuẩn bị bằng một cách thức hoàn toàn đặc biệt cách nhưng không, “Chúa đã cho Đức Maria cưu mang mà không mắc tội nào bằng cách chuẩn bị cho Mẹ tất cả những đặc sủng do công ơn Con của Người, phát xuất từ cuộc thương khó vinh quang của Ngài”. Phải thường xuyên chiêm ngắm Mẹ Maria trong tất cả những ơn mà Me nhận từ Thiên Chúa: Ơn vô nhiễm nguyên tội, ơn làm Mẹ Thiên Chúa, ơn lên trời cả hồn lẫn xác. Tất cả những ơn đó Mẹ nhận lãnh cách nhưng không, và chính mẹ hát lên: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa vì Người đã đoái nhìn đến phận hèn tớ nữ”.
Tuy nhiên, nếu đó là ơn nhưng không của Thiên Chúa thì không ai có quyền độc chiếm. Nơi Đức Maria có một điều gì đó thu hút con tim Thiên Chúa. Đó là một mầu nhiệm đã làm cho thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsunói đến: “Nếu Thiên Chúa tìm thấy một tâm hồn còn khiêm tốn hơn Đức Nữ Đồng Trinh, thì Người còn làm cho tâm hồn đó tràn đầy ơn sủng hơn nữa”. Điều thu hút Thiên Chúa, tôi tưởng rằng đó chính là sự nghèo hèn của Đức Maria, sự khiêm hạ, niềm tin và sự phó thác của Mẹ. Khi Thiên Chúa thấy ai đó hoàn toàn tước bỏ chính mình thì Người đến lấp đầy. Sự khiêm nhường của Đức Nữ Đồng Trinh, sự thinh lặng của Mẹ là thế đó. Khi ta nói rằng Mẹ chúng ta là đỉnh cao của khiêm nhường, thì điều đó muốn nói rằng Mẹ đã nhìn thấy một phản chiếu lờ mờ từ sự thánh thiện của Thiên Chúa. Mỗi khi người ta thấy được điều đó thì làm sao người ta có thể tự coi mình là quan trọng trên trái đất nầy nữa? Khiêm tốn sẽ chống lại mặc cảm tự tôn cũng như mặc cảm tự ti, các mặc cảm này là những cái nhìn quy hướng về mình. Trong khi khiêm nhường thiết yếu là một cái nhìn hướng về Thiên Chúa. Cũng như Đức Maria, bạn cũng hiểu ra rằng Thiên Chúa là Đấng cao cả, Người là Đấng thánh và Người luôn nhìn đến đầy tớ khiêm tốn của Người, thì bạn không còn có thể nhìn đến cái gì khác. Chính vì vậy mà Mẹ đã được đặt trong một sự thinh lặng hoàn toàn sẳn sàng.
Sự thinh lặng đó đã xảy ra nơi Mẹ ngay từ lúc mà Mẹ đã cảm thấy điều thiên Chúa muốn nói nơi Mẹ. Nơi thánh Luca có một lời lặp lại hai lần khi nói về Mẹ Maria, ở chương 2 câu 19 và 51: “Còn Mẹ Maria thì ghi nhớ tất cả những sự việc đó trong lòng và suy đi gẫm lại”. Mẹ Maria làm thinh, và tôi tưởng đó cũng chính là ý nghĩa cho sự trinh khiết của Mẹ. Tuy nhiên, ở đây Mẹ đã đáp lại bằng một câu hỏi, một câu đã làm cho các nhà chú giải phải tốn bao nhiêu giấy mực từ thánh Augustinô cho đến Cajetan: “Điều đó xảy đến thế nào được, bởi vì tôi không biết đến người nam?” Mẹ đã nói thế còn các nhà chú giải sau Mẹ thì nói: “Điều đó làm sao có thể xẩy vì tôi không chờ đợi nữ tính tròn đầy của tôi ở nơi một người đàn ông cũng phải chết như mọi người?” Vì Mẹ nhớ câu “Hôn phu của ngươi là Đấng sáng tạo ngươi” (Isai 54,5) cơ mà! Cần phải thường xuyên chiêm ngắm sự trinh trắng của Mẹ Maria, bởi vì chúng ta chỉ có thể hiểu được mầu nhiệm trinh khiết riêng của chúng ta dưới ánh sáng khiết trinh của Mẹ.
Đôi lúc người ta nói rằng sống đức trinh khiết trong đời sống độc thân ấy là yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự. Đúng thế, nhưng đó mới chỉ là phần bé nhỏ của mầu nhiệm khiết trinh. Mầu nhiệm khiết trinh, đối với Mẹ Maria, thiết yếu là ý thức lời sau đây của thiên thần : Hãy vui lên hỡi người đầy ơn phúc, bởi vì Chúa ở cùng Mẹ. Cần phải dừng lại lâu trên lời này. Khi ai đó một lần trong đời nghe được câu: “Bạn đầy ơn phước” thì tôi nghĩ người ấy không còn có thể nói lên cái gì cao cả hơn được nữa, người ấy hoàn toàn ở trong sự thinh lặng. Nếu trong cuộc đời dù chỉ một lần bạn chưa hề có kinh nghiệm mình được yêu mến, thì bạn phải biết là người ta không thể nói với bạn được điều gì về tình yêu. Câu “ Mẹ đầy ơn phúc” muốn nói lên điều gì? Chúng ta nghĩ tới sự đầy tràn ơn sủng, tới ơn thánh hoá. Quan niệm ấy thực tế không được biết đến trong cựu ước. Đối với cựu ước, nói : “ Mẹ đầy ơn phúc” có nghĩa là: “Mẹ hãy vui lên, Mẹ là người được Chúa yêu dấu”, tức là “Mẹ được Thiên Chúa sủng ái”. Môsê đã từng nói: “Con được sủng ái trước mắt Ngài”. Được sủng ái trước mắt Thiên Chúa! Khi một ai nghe thấy điều ấy, dù chỉ một lần, thì làm sao người đó lại không run lên? Theo nguyên văn câu Kinh Thánh là: “Nghe những điều ấy, Mẹ đã bối rối”. Tại sao Mẹ lại bối rối? Bởi vì Mẹ tự hỏi lời chào đó từ đâu đến. Mẹ tập trung cái nhìn về Thiên Chúa chứ không phải về Mẹ. Đó là một mầu nhiệm, và điều đó được ban cho cách nhưng không.
Còn chúng ta, chúng ta không được tạo nên như thế. Bởi vì tội lỗi đã in dấu trên chúng ta, chúng ta hay tập trung vào mình, tuy nhiên không phải là lỗi của chúng ta. Khi chúng ta bắt đầu hiểu được rằng trong cuộc đời có 95 % là đau khổ và khốn quẫn, còn 5% là tội lỗi, thì chúng ta phải biết rằng có 95% khốn khổ mà người ta đã không chọn. Khi ấy ta mới hiểu được câu: “Ta đến vì kẻ nghèo hèn và người tội lỗi”. Khi Mẹ Maria nghe được câu: Mẹ là người yêu dấu của Thiên Chúa, thì Mẹ hiểu ra rằng Mẹ không thể làm gì khác hơn là giao phó cho Thiên Chúa thân xác và tâm hồn. Khi ta được yêu thương bởi Thiên Chúa, bởi Đấng luôn theo dõi từng giây từng phút trong cuộc đời ta, Đấng đếm từng sợi tóc trên đầu, thì ta không thể trao hiến mình cho một tình yêu nhân loại nào nữa.
Cần phải khám phá ra tình yêu của Thiên Chúa để đi vào trong mầu nhiệm tiệc cưới vĩnh cửu. Nếu người ta không bị đốt cháy bởi ngọn lửa tình yêu ấy, thì một ngày nào đó sẽ có một ngọn lửa khác đốt cháy chúng ta, ngọn lửa của dục vọng. Một nhà thần học đã nói: “Những người hiến dâng mình trong mầu nhiệm của tiệc cưới vĩnh cửu là những người được đốt nóng tới 39 độ”. Thông thường người ta sống ở 37 độ trong khí hậu bình thường. Nhưng khi được Thiên Chúa đụng vào thì người ta nóng lên 39 độ. Bạn chỉ cần quan sát một cậu con trai khi bước vào đời sống đan tu, hoặc một cô gái khi trở thành một nữ tu, họ không thể không nóng lên ở nhiệt độ cao đó sao! Người ta nhận thấy có cái gì đó khác thường nơi họ. Chỉ có điều đó mới thúc đẩy chúng ta hành động, mặc dù không coi thường tình yêu nhân loại, bởi lẽ đó là một vẻ đẹp, và tôi xin nói ngay với các bạn dù một giây tôi cũng không loại bỏ tình yêu đó, nhưng tôi muốn nói chỉ có tình trạng nóng bỏng trên đây mới đẩy chúng ta đến chỗ tự để cho một tình yêu sâu xa khác xâm chiếm. Nếu ta không được tình yêu đó sưởi ấm, thì ta đang ở trong tình trạng nguy hiểm đối với đời sống trinh khiết… Phải có đời sống nội tâm sâu xa, không khác được. Giám mục Lustiger khi viết cho các chủng sinh đã nhấn mạnh: “Tôi sẽ không gọi một chủng sinh lên lãnh chức thánh, nếu thầy đó không đang khởi đầu sống với Thiên Chúa”. Khi Đức Nữ Đồng Trinh hiểu được câu: “Bà là người được Thiên Chúa yêu dấu” thì Mẹ chỉ còn cách trả lời: “Tôi không biết đến người nam và tôi không muốn biết chuyện đó”. Sự thinh lặng lúc bấy giờ, sự thinh lặng mà Mẹ đã sống, đó chính là sự thinh lặng của đức trinh khiết làm cho một tâm hồn dành hoàn toàn cuộc đời mình cho Thiên Chúa. Thinh lặng là linh hồn của Đức trinh khiết với ý nghĩa là, kẻ nào chấp nhận đi vào trong mầu nhiệm này thì cũng chấp nhận chỉ sống cho một mình Thiên Chúa: “Bà đẹp nhất trong các người phụ nữ”. Mẹ Maria đã hiểu điều đó và Mẹ đã tìm cách sống duy cho một mình Thiên Chúa.
Sự chờ đợi của Mẹ Maria không phải là điều mà chúng ta gọi là sự chờ đợi kêu van. Bởi vì trong Giáo hội Mẹ đảm nhiệm trật tự của lòng xót thương, nên Mẹ chờ đợi cùng với Giáo hội. Và người ta kêu xin Mẹ luôn, bởi vì phần hai của kinh Kính Mừng đọc: “Cầu cho chúng con là kẻ có tội”. Nhưng Mẹ Maria là một sự chờ đợi hoàn toàn, bởi vì những ước muốn của Mẹ trùng hợp với các ước muốn của Chúa Cha, đến nỗi các giáo phụ nói: ước muốn của Mẹ ở bên kia các ước muốn. Để đón nhận Lời của Thiên Chúa vào mọi ước vọng của mình, thinh lặng của Mẹ phải nhắm đến mức độ mà chúng ta khó có thể hiểu được. Sự thinh lặng của Mẹ Maria đạt đến cực độ lúc Mẹ nói với Thiên Chúa: “Xin xảy đến cho tôi như lời Ngài!”, nghĩa là “tôi xoá bỏ mọi lời nói của nhân loại để chỉ lấy lời Ngài làm ưu tiên”. Đó là đức tin, là sự ưu tiên thường xuyên cho một tư tưởng khác với tư tưởng của chúng ta. Bạn hãy suy nghĩ về Abraham khi Thiên Chúa bảo ông: “Ta cho ngươi một đứa con trai, ngươi hãy mang nó giết đi, làm lễ toàn thiêu cho Ta trên núi!” Nếu ông muốn làm theo ý mình, ông sẽ nói : “Tôi có quyền có một đứa con trai, bởi vì Ngài đã hứa cho tôi một dòng dõi qua đức trẻ đó. Thế mà giờ Ngài lại bảo tôi giết nó làm lễ toàn thiêu sao?!” Trong đời sống tu trì, một ngày nào đó, không biết khi nào, bạn sẽ phải làm một hành vi đức tin như ông Abraham: dâng hiến cái mà bạn cho là quí giá nhất. Theo bề ngoài thì ai chẳng muốn theo ý mình? Khi người ta nói với chúng ta: “Anh làm điều này nhé ?” Chúng ta liền nói: “ Nhưng tôi có quyền suy nghĩ riêng”. Phải, bạn có quyền suy nghĩ, nhưng bạn không còn ở trong đức tin nữa. Đức tin, đó là sự chấp nhận bị dẫn đi bởi một tư tưởng khác. Tuy nhiên, các bạn hãy thận trọng. Đôi khi người ta viện lý lẽ đức tin vì muốn người khác suy phục mình. Nhưng đức tin kông phải là phương tiện để có được bất cứ cái gì. Nó là một phương tiện để nên thánh, chứ không phải để sai khiến. Điều được đề nghị với Mẹ Maria, cũng chẳng thuộc về chủ nghĩa duy ý chí, hoặc anh hùng chủ nghĩa, nhưng nó thuộc về hành vi đức tin – “Làm sao điều đó có thể xảy ra được?” – Hãy giao phó cho Thiên Chúa vấn nạn đó, rồi Người sẽ can thiệp. Và đây là câu trả lời, thiên thần nói : “ Ta sẽ cho cô một dấu hiệu, và đúng hơn là hai dấu hiệu. Elisabeth chị họ của cô, là người son sẻ và già nua, sẽ sinh hạ một con trẻ, bởi vì không có gì mà Thiên Chúa không làm được”. Tôi tin rằng Mẹ Maria đã rất xúc động bởi câu trả lời này : không có gì mà Thiên Chúa không làm được. Trong cuộc sống, khi bắt đầu hiểu ra rằng Thiên Chúa làm được mọi sự, thì người ta có thể nói: “ Xin thực hiện nơi tôi theo như lời Ngài”. Đức tin của Mẹ Maria dựa trên nền tảng đó.
Con người càng lại gần Thiên Chúa, càng cảm thấy một vực thẳm tách biệt nó với Thiên Chúa. Thật thế, chính nhờ mỗi bờ của con sông, người ta bắc cầu. Ở bờ phía Thiên Chúa, cần phải xây những trụ cầu bằng bê tông :đó là niềm tin vào sức mạnh, lòng thương xót và tình yêu của Người. Ởû bờ phía con người, làm trụ cột là sự khiêm tốn, qua đó con người chấp nhận trở nên nghèo khó. Trên hai trụ đó người ta bắc một cây cầu, cây cầu của sự tin tưởng phó thác. Cần cầu nguyện nhiều với Mẹ Maria để xin Mẹ ơn tin tưởng phó thác. Ta không xin Chúa Kitô sự tin tưởng phó thác này. Ta xin Người: “Xin gia tăng đức tin cho con”. Thánh Luca cho thấy rõ, Mẹ Maria đã lớn lên trong đức tin suốt cuộc lữ hành trần thế của Mẹ. Công đồng cũng nói như thế: “Mẹ đã lớn lên trong đức tin”. “ Xin thực hiện nơi tôi theo lời Ngài !” Không chút sợ hãi nào, không một sự từ chối nào đến làm rối loạn công việc của ân sủng.
Đừng sợ! Khi nghe Thiên Chúa nói, con người có cái cám dỗ là sợ. Và đó không phải lỗi của chúng ta, tôi xin lập lại như thế. Khi ta bắt đầu hiểu ra điều đó, thì ta biết mình chẳng có tội gì trong cuộc sống. Chúng ta được tạo nên theo cách thức như thế đó, đến nỗi khi Thiên Chúa tiến lại gần, chúng ta cảm thấy sợ hãi. Chúng ta là vậy đó. Lúc bấy giờ Thiên Chúa nói với chúng ta ngay rằng: “ Đừng sợ !” Mỗi một khi Thiên Chúa đề nghị điều gì với ai, thì đó là những điều mà ta không thể hoàn thành trọn vẹn được. Người đề nghị những điều không thể làm được. Trong cuộc sống của tôi, Người luôn đề nghị với tôi những điều tôi khôngthể thực hiện được. Và cám dỗ đối với tôi, đó là rút lui mà nói : “Con không thể, con không có phương tiện”. Lúc ấy, Thiên Chúa sẽ cẩn thận báo cho chúng ta biết mỗi khi Người muốn đề nghị với chúng ta điều gì đó, bằng cách thông tin cho chúng ta. Ngài cho chúng ta nghe một lời khuyến dụ : “ Đừng sợ, Ta luôn ở với con”. “ Ta luôn ở với con”, đó là điều chắc chắn. “ Không có sự sợ hãi nào, không có sự rút lui nào có thể đến làm rối công việc của ân sủng, con tim Mẹ tràn đầy sự chờ đợi không thể diễn tả được, Mẹ dâng lên Thiên Chúa sự thinh lặng nơi Lời Thiên Chúa đang cư ngụ”.
Thinh lặng đầu tiên của Mẹ Maria, đó là thinh lặng của sự chờ đợi ; thinh lặng thứ hai là thinh lặng của sự chú ý. Đức Trinh Nữ chú ý Lời của Thiên Chúa đang nhập thể trong lòng Mẹ. Đối với chúng ta, đó cũng là điều quan trọng. Chúng ta phải hết sức hồi tâm để có thể ý thức rằng Thiên Chúa Ba Ngôi đang cư ngụ trong lòng chúng ta. Êlisabeth de la Trinité nói: “ Chúng ta phải được đặt vào trong sự thinh lặng của Thiên Chúa”. Đó không phải sự thinh lặng từ con người mà đến, nhưng là từ Thiên Chúa. Mẹ Maria quan tâm, để ý đến điều đang xảy ra trong Mẹ, Mẹ được đặt vào trong sự thinh lặng sâu xa hơn. Khi một bà mẹ đang chờ đợi một đứa con ra đời, bà có thể nói với các bạn cách dễ dàng những hy vọng lẫn thất vọng của bà, bà tưởng tượng ra đứa con của mình cách này hay cách khác, với khuôn mặt giống người cha hay giống bà. Còn Mẹ Maria thực sự không thể tưởng tượng Đứa Con đang ở trong lòng mình là thế nào, vì Mẹ biết ra rõ Cha của Đứa Bé là Cha trên trời, vì Thánh Thần đã làm cho Ngài đầu thai trong lòng Mẹ. Mẹ không thể nghĩ tưởng gì trong phút chốc, Mẹ được đặt vào trong sự thinh lặng hoàn toàn, Mẹ có thể thấy Chúa Cha đang bảo vệ Mẹ, săn sóc Mẹ, nhưng Mẹ không thể nghĩ ra điều gì khác nữa. Chính điều đó đòi Mẹ phải sống trong môt hành vi đức tin đặc biệt, một đức tin mà Zacharia không có. Hai bài Kinh Thánh nói về sự truyền tin cho Zacharia và cho Mẹ Maria đựơc xây trên cùng một kiểu. Sự thiếu niềm tin nơi Zacharia là biểu tượng cho lòng tin trong cựu ước. Zacharia không thể tin, còn Mẹ Maria đã bằng lòng tin và chấp thuận. Zacharia bị câm không thể nói được, trong khi đó Mẹ Đồng Trinh có thể nói lên điều mà người ta gọi là lời tuyên xưng đức tin của Mẹ trong bài Magnficat khi Mẹ nói: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa”, Thánh Luca đã xây dựng bài viết của mình tuyệt vời, ngài đưa vào câu sau đây của bà Êlisabeth, vợ ông Zacharia: “ Em thật có phúc vì em đã tin”, em đã có niềm tin và điều đó hiểu ngầm “ còn ông chồng tội nghiệp của chị lại không có được niềm tin như em, nên ông đã câm”, câm, tức là không thể tuyên xưng niềm tin của mình. Theo Urs Von Balthasar, thì tất cả hành vi đức tin trong Giáo hội có gốc rễ nơi hành vi đức tin của Mẹ Maria, nơi lời tuyên xưng của Mẹ.
Trong thời gian đó, Mẹ Maria nuôi Ngôi Lời Thiên Chúa bằng chính bản thể của Mẹ, Mẹ cho Lời đó một cách diễn tả, bằng cách hiến cho Lời đó một thân xác. Ôi mầu nhiệm làm sao! Khi ta nghĩ đến lời nói của Chúa Kitô, chẳng hạn, trong thư gửi tín hữu Do thái chương 10 câu 5: “Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể” Đó là bí tích thánh thể; có một mối giây liên lạc rất sâu xa giữa ba mầu nhiệm : Nhập Thể, Giáng Sinh và Thánh Thể. Đó chính là mầu nhiệm của Chúa Thánh Thần, và đây là cái nhìn của các Giáo Phụ kể từ thời thánh Jean Damascène, khi ngài nói: “ Bạn tự nhủ làm sao bánh và rượu trở nên mình và máu Chúa Giêsu được ! Nầy ! Tôi xin hỏi lại bạn : Làm sao Mình Chúa Kitô lại được tạo nên trong lòng của Đức Maria ?” – “Chúa Thánh Thần đã ngự xuống trên Mẹ và rồi Người đã thực hiện nơi Mẹ điều mà Người sẽ làm nơi Phép Thánh Thể”. Có mối liên lạc, bạn cũng như tôi biết rõ điều đó, mối tương quan này đã được Công Đồng chấp nhận: Kinh cầu xin Chúa Thánh Thần trong mỗi kinh nguyện thánh thể cho thấy điều đó. Bấy giờ Ngài đã nắn nên cho con thân xác. Mẹ Maria đã cho Chúa Kitô thân xác này, một thân xác được tạo nên trong sự thinh lặng. Suy nghĩ đến chính thân xác của Chúa Kitô là điều rất quan trọng khi ta nghĩ đến Bí Tích Thánh Thể. Cần phải trở đi trở lại với thần học về thân xác, bởi lẽ thân xác chúng ta là cách thức duy nhất làm cho chúng ta hiện hữu trong thế giới này. Thân xác chúng ta rất quan trọng, và bí Tích Thánh Thể đụng chạm đến thân xác chúng ta.
Bây giờ chúng ta đi đến sự thinh lặng sau cùng, tới lời sau cùng, ở nhà tiệc ly cùng với các Tông Đồ. Nếu các bạn đã đọc Thông Điệp Redemptor Hominis ( Đấng cứu chuộc Con Người ) của Đức Thánh Cha, thì có lẽ các bạn đã thấy là Ngài nhấn mạnh về sự hiện diện của Đức Maria ở nhà tiệc ly như là một sự nâng đỡ cho sự kiên trì và tin tưởng của các Tông đồng trong lời cầu nguyện. Để có được ơn kiên trì trong cầu nguyện các bạn phải chạy đến với Mẹ, bởi vì Mẹ có ơn nâng đỡ những tâm hồn nản chí. Chúng ta là những người hay đổi ý, thất thường ! Sau lần cầu nguyện với các Tông đồ ở nhà tiệc ly, Mẹ Maria không còn xuất hiện, người ta nói rất ít về Mẹ, một sự thinh lặng bao trùm Mẹ. Chúng ta biết rằng thánh Gioan đã đưa Mẹ về nhà, nhưng chúng ta không biết thánh nhân đi đâu. Mẹ ở đâu, điều đó không quan trọng; điều quan trọng ở đây, đó là sự thinh lặng của Mẹ, một sự thinh lặng bao trùm lên Mẹ. Trong những viễn tượng đó, Mẹ Maria luôn là Mẹ của Chúa Giêsu, mẹ luôn để ý đến sự tăng trưởng của Giáo Hội và bao bọc chở che bằng sự ân cần của một người mẹ. Ta hiểu rằng Công đồng đã gọi Mẹ là Mẹ của Giáo Hội. Mẹ phải chăm sóc thân thể Con của Mẹ. Người ta nói rất ít về Mẹ: đó là một sự thinh lặng an bình sau một công việc đã hoàn thành. Ởû đồi Can-vê, sau cái chết của Chúa Giêsu, sự thinh lặng của Mẹ có tính cách đau đớn. Bây giờ sự thinh lặng của Mẹ là một thinh lặng vui tươi, hớn hở. Mẹ suy ngắm mọi chuyện trong trái tim Mẹ, Mẹ đã chấp nhận đi vào trong thế giới của Thiên Chúa và Mẹ đã thấy được sự hiện hữu của mình như là một công trình của Thiên Chúa. Mẹ thấy bàn tay của Thiên Chúa ngang qua tất cả những gì Mẹ đã làm. Các bạn phải cầu nguyện với Mẹ nhiều để Mẹ dạy cho các bạn đọc ra được hành động của Thiên Chúa trong đời sống của các bạn.
Đàng khác, chắc chắn lúc bấy giờ Mẹ đã kể với thánh Luca và những người khác về cách thức mà Thiên Chúa đã hành động nơi Mẹ. Tôi tin là Chúa Thánh Thần phải được ban cho Giáo Hội, và các Tông đồ phải có kinh nghiệm về Chúa Kitô phục sinh để mẹ có thể giải thích cho họ mầu nhiệm về sự khiết trinh vẹn tuyền của Me, bởi đây không phải là chuyện hoàn toàn thông thường. Như Đức Kitô đã được cho sống lại nhờ quyền năng Thiên Chúa – Thánh Phaolô nói : “Anh em đã tin vào quyền năng của Thiên Chúa, Đấng đã cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết”_ thì, cũng thế Thần Khí đã ngự xuống trên Mẹ và đã bao trùm Mẹ dưới bóng của Người, và quyền năng của Thiên Chúa đã rợp bóng trên Mẹ. Cha Georges nói: “Với tư cách cá nhân, tôi thấy có sự tương quan lạ lùng giữa sự thụ thai trinh khiết và lễ Ngũ Tuần; không phải sao, chính trong bầu khí này, lúc các Tông đồ vừa mới nhận Thần Khí của Chúa Giêsu, mà Mẹ Maria đã nói về sự thụ thai trinh khiết của mình, và Mẹ đã nói rằng Chúa Giêsu sinh ra do bởi Chúa Thánh Thần?” Mẹ Maria không nói lúc Chúa Giêsu còn sống. Lúc đó Chúa Giêsu nói. Nhưng sau này, Mẹ đã nói và tất cả những điều Mẹ nói, đó là những điều vừa nói trên đây. Điều mẹ muốn cho biết, đó là Thiên Chúa muốn liên đới với thế giới. Chính vì thế Mẹ Maria là kiểu mẫu gắn bó với Thiên Chúa. Mẹ đã sống điều này trong đời sống của Mẹ.
Với mầu nhiệm phục sinh của Chúa Kitô, có một cái gì đó đã xẩy ra trong đời sống của Mẹ,ï bởi vì các Tông đồ đã được biến đổi do Chúa Thánh Thần đã được đổ tràn xuống. Mẹ Maria đã được tràn đầy ân sủng nhưng tôi nghĩ rằng lúc bấy giờ, trong ân sủng này, Mẹ đã có được vinh quang rồi. Thánh Phaolô nói trong thư gửi Tín hữu Do Thái: “Họ hết thảy đã được Thiên Chúa chứng giám nhờ bởi đức tin, thế mà họ đã không được lãnh lấy điều đã hứa là sự sống lại: Thiên Chúa vì dự liệu cho ta một cái gì hoàn hảo hơn, thì đã không để họ đạt thấu thành toàn mà lại không có ta”. Phải, Mẹ Maria, cũng như cácTông đồ, đã là một sự Phục sinh sống động; Mẹ đã sống đúng từng chữ điều mà thánh Phaolô nói, Mẹ đã mang vinh quang của Đấng Phục Sinh trong những bình sành, và đó là điều rất quan trọng. Bossuet thường tự nhủ: “Đức Nữ Trinh đã làm thế nào để có thể sống với một sức nặng vinh quang như thế ?” Vinh quang của Thiên Chúa trong Đức Giêsu chết và sống lại, trong Mẹ Maria và trong mỗi người chúng ta, dường như bị che khuất.
Trong cựu ước, vinh quang làm cho người ta sợ, không muốn thấy ngọn lửa vĩ đại đóù, vì họ không muốn chết. Còn trong Chúa Kitô, vinh quang hình như bị thu lại để trở nên khiêm tốn, dịu dàng và đầy tình thương xót. Tình yêu thương là một tên khác của vinh quang, vinh quang đó đã có nơi Chúa Kitô trong khi Người sống tại thế, nhưng người ta không thấy, ngoại trừ lúc Ngài biến hình. Chúng ta nghe lời Người: “Hãy đến với Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng”. Vinh quang đó cũng có nơi Mẹ Maria. Tôi tin rằng người ta có thể nói về Mẹ Maria vào lúc cuối đời rằng, Mẹ được vinh quang chiếm đoạt. Mẹ như con người mới mà Chúa Giêsu và thánh Phaolô nói tới: hoàn toàn khiêm tốn, dịu hiền, với một tình yêu đặc biệt đối với người tội lỗi. Bên ngoài, Mẹ Maria cũng ở trong sự thinh lặng sâu thẳm nhất. Điều mời gọi chúng ta chạy đến với Mẹ, vì Mẹ là người nữ hoàn toàn để cho Chúa Thánh Thần xâm nhập và uốn nắn. Mẹ là người nữ của Chúa Thánh Thần. Các thánh luôn cảm nhận được mầu nhiệm đó. Thánh Grignion de Montfort nói một câu rất hay: “Khi Chúa Thánh Thần thấy Mẹ Maria ở trong một tâm hồn nào đó, thì Ngài bay tới đó”. Giữa Mẹ và Chúa Thánh Thần có một tương quan thân thiết bởi vì Mẹ hoàn toàn để cho Chúa Thánh Thần chiếm đoạt. Mẹ luôn để cho Người hướng dẫn.
Sự thánh thiện là gì, nếu không phải là để cho Chúa Thánh Thần hướng dẫn? Hãy loại bỏ những gì xấu xa và giữ lại những gì tốt lành! Người ta càng tiến lên trong đời sống thiêng liêng, thì càng thấy mình có rất ít điểm chuẩn. Có những lệnh truyền của Thiên Chúa và của Giáo hội, và người ta biết rõ điều gì phải làm và điều gì phải tránh. Nhưng trong chi tiết của cuộc sống thường ngày, từng giây từng phút, thì chúng ta biết rất ít. Chính vì thế, kinh nghiệm cho thấy, chúng ta cần phải chấp nhận để được hướng dẫn, bằng cách trung thành với những nhắc nhở của Thần Khí. Chúa Thánh Thần nhắc nhởû hết sức tế nhị. Tuy nhiên phải thêm rằng Người đang hướng dẫn và ban cho chúng ta cái cảm nghiệm mà Mẹ Maria đã có: Thần Khí đang hướng dẫn, cái cảm nghiệm làm cho Mẹ cảm thấy hành động của Người trong đời sống của Mẹ. Mẹ sẽ mang đến cho chúng ta ơn mà thánh Phaolô đã nói khi đề cập đến “sự tuân phục của đức tin”(x Rm 1,5 & 16, 26). Mẹ Maria sẽ làm cho các bạn trở thành những con người vâng phục Lời Thiên Chúa, tuân phục Chúa Thánh Thần.
Chúng ta biết rất ít về cái chết của Mẹ. Giáo hội không muốn đi sâu vào chuyện đó. Nhưng điều mà chúng ta biết, đó là tất cả những ai là tôi tớ của Mẹ, đã yêu mến Mẹ, như cha Kolbe, thánh nữ Bernadette, thánh Catherine Labouré và tất cả các thánh, thì vào cuối đời, họ đều có kinh nghiệm về sự hiện diện của Mẹ. Thánh Alphonse de Liguori chịu dằn vặt suốt cuộc đời, bởi sự lo lắng quá về các hành vi của mình, ngài sống tới tám mươi hai tuổi và chịu rất nhiều đau khổ. Vào những ngày cuối đời, ngài tự hỏi không biết làm thế nào để được chết bình an. Và rồi ngài đã cảm nhận được một sự bình an, một thứ bình an không thể tưởng nổi. Ngài rất yêu mến Đức Nữ Trinh, nên Mẹ luôn ở gần ngài. Chúng ta dám chắc rằng khi chúng ta cầu xin với Mẹ, thì Mẹ có đó, bên cạnh chúng ta. Đừng tìm kiếm an ủi nơi nào hoặc ánh sáng nào khác ngoài những tiếng rên siết của Chúa Thánh Thần. Phải luôn luôn kêu van Người trong mọi hoàn cảnh. Và chính Mẹ Maria dẫn chúng ta vào con đường đó.
III. ƠN PHÓ THÁC
1. MỘT CON NGƯỜI ĐÃ ĐƯỢC BIẾN ĐỔI
Trong thời gian tôi ở bệnh viện, từ ngày 25 tháng 5 đến ngày 5 tháng 6 năm 1990, vào thứ sáu tháng 6, tôi đã nhận được một cú điện thoại xin tôi đi ban các bí tích cho một người bạn tên là Ferdinand Malevache. Anh ta muốn gặp tôi trước ngày lễ Phục Sinh, nhưng chỉ sau này tôi mới có thể hiểu được sự lo lắng của anh. Anh mắc bệnh ung thư và đang ở giai đoạn cuối. Tôi xuất viện ngày 5 tháng 6 và đã gọi điện thoại cho anh, như tôi vẫn làm mỗi ngày và hứa với anh sẽ thăm anh ngay khi tôi trở về nhà. Thứ ba ngày mùng 5 vào buổi chiều, tôi đến thăm anh. Anh xin tôi giải tội cho anh và tôi hứa sẽ đến dâng thánh lễ và ban bí tích bệnh nhân cho anh vào thứ tư ngày mùng 6 lúc 15 giờ.
Có khoảng 12 người đứng xung quanh anh. Trong đó có cô em dâu và người bạn của anh tên là Dominique Destomber, hai người này tận tình săn sóc anh trong thời gian anh đau ốm. Bên ngoài trông anh có vẻ không có gì đau đớn lắm. Tôi đã dâng thánh lễ cầu nguyện cho bệnh nhân. Tôi chọn một đoạn trích từ thư của thánh Gia-cô- bê cho bài đọc một. Sau Tin Mừng tôi cử hành bí tích sức dầu bệnh nhân. Sau đó, anh ta rước Mình và Máu Chúa Ki-tô.
Chúng tôi cám ơn Chúa một chút, rồi cô em dâu của anh nói với tôi: “Chính lúc này mà con nhận ra một con người được biến đổi”. Cô ta nhớ lại: thật khó khăn biết bao khi phải giải thích biến cố Biến Hình cho các em học giáo lý, nhưng lúc nhìn Ferdinand sau khi rước lễ, cô ta mới thấy và hiểu ra ý nghĩa.
Khi ấy tôi đã nghiệm ra thế nào là một Ki-tô hữu sống cuộc khổ nạn trong lúc đau đớn, nhưng lại được nâng đỡ bởi vinh quang và người đó để cho niềm vui phục sinh và vinh quang của Đấng Phục Sinh chiếu toả trên khuôn mặt của mình. Anh ta cũng nói là anh cảm thấy thật hạnh phúc sau thánh lễ tạ ơn này và đó là một trong những ngày đẹp nhất trong cuộc đời của anh.
Tôi đã ôm hôn và từ giã anh, nhưng tôi lại sợ anh chết trong những đau đớn khủng khiếp, đặc biệt là chứng xuất huyết. Tôi cho anh một cỗ tràng hạt và ra về. Tôi đã dành một chút thì giờ buổi chiều để đọc kinh lần hạt, cầu xin Đức Nữ Đồng Trinh luôn ở bên cạnh anh trong giờ sau hết và làm dịu cơn đau của anh. Tôi rất ít được nhậm lời khi cầu nguyện để cho ai đó không chết.
Đúng như tôi nghĩ, sau khi lên cơn đau một lúc, anh được bác sĩ tới thăm và cơn đau tạm dịu xuống. Chiều đó anh đã ra đi trong bình an. Tôi đã không tin điều đó khi Gérard Sandevoir gọi điện báo cho tôi vào sáng thứ năm. Quả thực, anh đã chờ đợi thánh lễ Tạ Ơn để đi vào trong niềm vui trên trời. Đứng trước mộ anh, tôi chỉ có thể nói lên một lời duy nhất, đó là: Ferdinand đã đau đớn nhiều, nhưng anh đã chết trong trạng thái được biến đổi, và niềm vui chiếu toả trên khuôn mặt anh đã là một sự tiên hưởng niềm vui trên trời. Thật là cao cả, sức mạnh của lời cầu nguyện và sự hiệp thông giữa các tâm hồn.
2.MỘT NỖI ĐAU VUI MỪNG TRONG NƯỚC MẮT.
Điều tôi sắp nói đây tiếp theo phần trước, nhưng đây hoàn toàn là điều không thể thấy trước được. Ngoại trừ khi tình yêu của Thiên Chúa chạm đến trái tim khiến tôi nhận ra sự vô ơn của mình, thì tôi không có tài đổ nước mắt ra khóc lóc tội lỗi mình. Nhưng ngày an táng của Ferdinand lại là một chuyện khác. Tôi xin nói ngay là tôi không cho điều đó thuộc về tài khóc lóc, bởi vì bên trong có nhiều yếu tố tâm lý, đó là sự lo lắng đang đè nặng bởi những kết quả phân tích sau khi tôi mổ. Nhưng tôi tin là có cái gì đó thiêng liêng, tôi tin chắc điều đó.
Tôi rất là bình an khi đi đến nhà thờ Beaulieu. Tôi không cảm thấy đau nhức gì về thể lý. Cũng không thể nói tôi buồn vì cái chết của Ferdinand, tôi đã nhận ra việc tay Chúa làm. Tôi luôn ở trong bình an. Vậy mà khi bắt đầu thánh lễ tự nhiên tôi khóc ròng, không thể nói và hát được nữa. Tôi không nói đó là những dòng nước chảy từ mắt, nhưng từ chỗ sâu xa của lòng tôi trào lên và tràn xuống trên khuôn mặt, tôi không thể ngăn lại được. Thường thường khi cần thiết, tôi chạy lại với Đức Nữ Trinh bằng kinh Mân Côi, nhưng lúc này tôi đành bất lực. Tôi cảm thấy xấu hổ trước mặt giáo dân, nhưng phải chấp nhận vì không thể làm gì hơn.
Sự kiện đó đã kéo dài cho đến cuối thánh lễ, nhưng khi ra ngoài nghĩa trang tôi đã có thể nói được. Có nên thử giải thích hiện tượng đó xem thế nào không? Tôi có cảm tưởng là toàn bộ sự êm dịu tỏa rạng trên khuôn mặt của Ferdinand ngày tôi dâng thánh lễ cho anh, đã nhấn chìm tất cả sự đau khổ của căn bệnh, và tim tôi đau như thể nó muốn tan chảy ra. Tôi không thể giải thích cách khác về sự bình an và êm dịu của những giọt nước mắt này trong tâm hồn tôi cũng như trong thân xác và trên khuôn mặt tôi.
Dù không biết nguồn gốc, nhưng ít ra tôi có thể nói tới cái hiệu quả của những dòng nước mắt đó nơi tôi. Bất ngờ tôi nẩy ra một so sánh: cái vắng lặng ngày hôm sau của một cơn mưa lớn; cái vắng lặng sau cơn bão, sau cơn giông tố, hoặc sau một cơn gió dữ dội; khi đó người ta nói đó là sự yên ắng. Ở đây không có cơn giông hay cơn bão nào, nhưng có trận mưa êm dịu và thấm nhuần mà hôm nay vẫn còn. Tôi có cảm tưởng mình đã được rửa sạch từ bên trong lẫn ngoài khỏi mọi buồn chán, sợ hãi và lo lắng. Bình an còn kéo dài. Tôi như một đứa bé vừa mới khóc, nhưng mọi đau khổ đã được quét sạch. Nói gì sau đó? Nếu không phải là câm lặng và tạ ơn.
3.TÔI CHỈ CÒN CỖ TRÀNG HẠT NỮA THÔI.
Trước khi thử đưa mầu nhiệm ơn gọi của tôi lại gần với sự cầu nguyện, tôi muốn nói cách đơn giản điều còn lại nơi tôi hôm nay. Tôi đã cầu nguyện nhiều và nhất là kêu van nhiều, tôi cũng đã nguyện ngắm, sống cách đơn sơ dưới cái nhìn của Chúa Cha và của Đức Ki-tô, thổ lộ lòng tôi với các Ngài, bằng lời nói hay im lặng.
Sau những thử thách, nhất là thử thách về sức khoẻ, chỉ còn lời cầu nguyện đang “nói” trong tâm hồn tôi. Không làm cho tôi mệt mỏi và nhất là có thể kéo dài, ấy là lần hạt. Đối với tôi nó thay thế cho tất cả những lời cầu nguyện khác và tạo nên một khúc nhạc căn bản, trên đó tôi cử hành thánh lễ và đọc kinh thần vụ.
Không biết tôi có suy gẫm các mầu nhiệm không, hoặc ngay cả có đọc các mầu nhiệm đó lên và cầu nguyện với các mầu nhiệm đó trong giây lát trước lúc lần hạt không. Điều hiển nhiên đối với tôi, đó là khi đọc những lời “Kính mừng Maria” mà thiên thần Gabriel và bà Elisabeth đã thốt ra, tức thì tôi ở trong lãnh vực cầu nguyện, trong nguyện ngắm được nói đến trên kia và đó là tất cả những gì tôi có thể đọc, ngay cả khi tôi nếm được cách đặc biệt hơn phần thứ hai của kinh: “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con, là kẻ có tôi khi nay và trong giờ lâm tử…”.
Khi đó tôi chỉ suy nghĩ một điều, đó là cố thực hiện từng chữ lời sau đây của thánh Phaolô: Tôi không biết cầu nguyện thế nào cho phải, nhưng có ai khác cầu nguyện cho tôi và trong tôi, và lời cầu nguyện này rất hoàn hảo bởi lẽ nó móc nối với lời cầu nguyện mà Thiên Chúa mong mỏi. Để diễn tả những điều đó theo một cách thức khác với cách của thánh Phao-lô, tôi tin rằng ở nơi sâu thẳm nhất của tâm hồn, tôi không xen vào, Chúa Thánh Thần đối thoại với tâm thần tôi và nói với Chúa Cha bằng những lời mầu nhiệm…, nhưng tất cả những gì tôi nói đó chỉ là chuyện hoàn toàn mang tính ước chừng. Tôi biết rõ lời cầu nguyện này là lời cầu nguyện của Chúa Thánh Thần, nhưng cảm giác duy nhất mà tôi có được, đó là lời cầu nguyện này do Mẹ Maria khởi xướng. Ngay cả đôi khi tôi có cảm tưởng như không cầu nguyện với Chúa Cha hoặc với Chúa Ki-tô, tôi cứ để Mẹ Đồng Trinh chọn lời cầu nguyện để tôi cầu nguyện với Một trong Ba Ngôi. Với tôi, điều thiết yếu là cầu nguyện. Đó là vấn đề sống chết, thất vọng hay bình an, chán chường hay vui tươi. Thật sự hôm nay Mẹ Maria trở nên tất cả cho tôi.
IV. LỜI NGUYỆN DÂNG CHÚA THÁNH THẦN.
Lạy Cha, nhân danh Chúa Giê-su
Xin ban cho con Thần Khí của Cha.
Lạy Chúa Ba Ngôi chí thánh, chúng con tuyên xưng quyền năng Chúa đã làm cho Đức Giê-su sống lại từ cõi chết và chúng con tin rằng Thần Khí được đổ xuống dạt dào trên Mẹ Maria và các Tông Đồ, khi các Ngài hội họp để cầu nguyện ở nhà tiệc ly. Chúng con ca ngợi Chúa vì sức mạnh từ trên đã đổ xuống các môn đệ và đã biến các ngài thành chứng nhân của Chúa Ki-tô phục sinh, nhờ ân huệ và đặc sủng mà Chúa ban cho Giáo Hội.
Chúng con cũng tuyên xưng rằng khi nhận phép rửa, chúng con đã thuộc về Chúa nhờ sức mạnh của chính Thần Khí, Đấng đến cư ngụ trong chúng con và đồng hoá chúng con với Đức Ki-tô hằng sống, làm cho chúng con trở thành những nghĩa tử của Chúa Cha và thành đền thờ của Chúa Ba Ngôi chí thánh.
Chúng con cũng thú nhận là Thần Khí đó đang bị cầm giữ trong những con tim chai đá của chúng con, và Người không thể làm cho sức mạnh của danh Chúa Giêsu phục sinh lan toả trong đời sống chúng con và trong Giáo Hội, qua các dấu chỉ sáng ngời.
Chính vì thế mà chúng con kêu nài Chúa Giê-su đang ở bên hữu Cha, để Người xin Cha, nhân danh Người, phái Thần Khí xuống trên chúng con. Xin Người soi sáng cho tâm trí chúng con, giúp chúng con khám phá ra ý của Cha, xin Người ban cho chúng con sức mạnh để thực hiện ý Cha, và xin Người đốt lên trong tâm hồn chúng con ngọn lửa của tình yêu Người.
Khi Chúa Thánh Thần thánh hiến chúng con trong chân lý và sự thánh thiện, chúng con muốn dâng lên Người toàn bộ con người chúng con và trao hiến chính mình chúng con cho hành động sáng tạo và thánh hoá của Người. Chúng con cầu xin Đức Nữ Trinh rất tinh tuyền và thánh thiện ban cho chúng con ơn biết vâng theo những linh hứng của Chúa Thánh Thần.
Chúng con không biết cầu nguyện thế nào cho phải trong khi Chúa Giêsu dạy chúng con cầu nguyện không ngừng, vì thế chúng con xin Chúa Thánh Thần đến cầu nguyện trong chúng con bằng những tiếng rên xiết khôn tả. Xin Người làm trào dâng lên từ nơi sâu thẳm của con tim chúng con lời cầu nguyện, xin Người chữa lành những vết thương của con tim chúng con và dẫn chúng con vào nơi sâu thẳm của tình yêu Ba Ngôi.
Sau cùng chúng con xin Chúa Thánh Thần đổ tràn xuống trên chúng con sức mạnh của Đấng Phục Sinh để các việc chữa lành, các dấu lạ và những điều kỳ diệu xảy ra nhờ Danh Đức Giê-su, và để chúng con có thể loan báo một cách chắc chắn Lời của Thiên Chúa.
Amen.
V. DI CHÚC
“Xin cầu nguyện nhiều cho tôi
để tôi trở thành lời cầu nguyện
trước Thánh Nhan Chúa.
Tôi muốn diễn tả ước mong ấy
theo hình thức một bài văn dưới đây.
Nên khi chết tôi xin để lại di chúc này.”
(Trích từ một lá thư)
Lạy Chúa, Chúa đã thăm dò và đã biết con,
đặt con trong lòng bàn tay Chúa.
Chúa đã tạo cho con đôi thận
đã dệt nên con trong bụng mẹ.
Chúa biết lòng con
và mỗi sáng gọi con bằng tên của con.
Con tạ ơn Chúa vì biết bao điều kỳ diệu:
Con thật diệu kỳ, công việc Chúa thật tuyệt vời.
Chúa biết rõ con chỉ là Lời Nguyện trước Nhan Ngài.
Lạy Cha, này con đây, con xin làm theo ý Cha
Ước gì tất cả hành động trong ngày hôm nay
Được xem như là một lời nguyện
Xin Thần Khí của Cha ban cho con
Ơn cầu nguyện của Chúa Giê-su.
Ôi, lạy Thiên Chúa,
Xin Ngài dò xét lòng con,
Xin Ngài biết rõ con tim sâu thẳm của con.
Xin Ngài thăm dò lòng con,
Xin biết rõ các nỗi lo lắng của con.
Xin giữ lòng con khỏi tính kiêu ngạo,
Xin đừng trao con cho đam mê của xác thịt,
Xin Ngài trông xem, để đường con đi không bất hạnh
Xin dẫn con đi trên đường sự sống
Con chỉ là Lời Nguyện trước Nhan Ngài.
Amen.
(viết theo thánh vịnh 138)
Noel 1978
MỤC LỤC
Dẫn nhập…………………………………………………...…….2
Một lộ trình………………………………………………………4
Thời kỳ khó khăn…………………………………………..……5
Những vết thương……………………………………..…………6
Lời cầu nguyện chữa lành…………………………………....…7
Ai đã dạy tôi cầu nguyện? …………………………….………10
1.Ngày đó Chúa Giêsu cầu nguyện ở một nơi thanh vắng……...13
*khi Người cầu nguyện xong………………………………...…16
*Người hằng sống để cầu thay nguyện giúp………………...…20
*lời cầu nguyện của Chúa Thánh Thần ………………………26
2.Maria suy đi nghĩ lại trong lòng……………………………...…33
*Lời cầu nguyện của đức maria……………………..…………36
*Thuộc trọn vào lời cầu nguyện của mẹ maria…………..……42
3.Đêm ngày họ kêu lên cùng Thiên Chúa ………………………46
*Chúng ta cầu nguyện đêm ngày ……………………………...48
*“…cùng một thần khí, kẻ thì được ban cho ơn đức tin…”……56
*“Người luôn nhậm lời, khi chúng ta xin điều hợp ý Người” …62
* “con luôn ơ ûvới cha” ……………………………………….…66
*“Một Thiên Chúa ẩn mình” …………………………….……71
Phụ Chương……………………………………….……………77
I. Ôi!Ước chi Ngài xé trời mà xuống………………….…………77
II. Suỵt! Đừng ồn ào………………………………………………96
III. Ơn phó thác…………………………………………………...112
1.Một con người đã được biến đổi……………………………112
2.Một nỗi đau vui mừng trong nước mắt………………..……114
3.Tôi chỉ còn cỗ tràng hạt nữa thôi……………..……………116
IV.Lời nguyện dâng Chúa Thánh Thần…………………………117
V. Di chúc…………………………………………………...……119
No comments:
Post a Comment